Châu Âu tổn thương và Đức đã thay đổi sau cuộc chiến tranh Nga- Ukraine
Tháng chín 10, 2024
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới đã xảy ra nhiều cuộc xung đột, bao gồm Chiến tranh VN, các cuộc chiến tranh ở Trung Đông, xung đột Ấn Độ – Pakistan, Chiến tranh Falkland, v.v. Tuy nhiên, phần lớn các cuộc xung đột này chủ yếu là để tranh giành lãnh thổ hoặc lợi ích. So với các cuộc xung đột truyền thống, chiến tranh Nga – Ukraine đã vượt ra ngoài phạm vi chiến tranh thông thường, ảnh hưởng chủ yếu là đối với trật tự quốc tế, tầm quan trọng của nó là điều không cần phải nói thêm.
Trên thực tế, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ có 2 sự kiện thực sự có ảnh hưởng lớn đến trật tự quốc tế, bao gồm sự sụp đổ của Liên Xô và cuộc xung đột Nga – Ukraine.
Sự sụp đổ của Liên Xô là sự kiện quốc tế có ảnh hưởng lớn nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi Liên Xô sụp đổ, nhiều quốc gia như Đông Âu, Triều Tiên, Ấn Độ, Việt Nam, Iraq, Syria, Libya, v.v., đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong đó Đông Âu được hội nhập bởi Tây Âu, Ấn Độ và Việt Nam đã chuyển sang con đường hội nhập đa phương, Triều Tiên rơi vào tình trạng nghèo đói kéo dài, các quốc gia thân Liên Xô ở Trung Đông và Bắc Phi bị quân đội phương Tây xâm lược. Còn các nước cộng hòa liên bang Liên Xô mới tách ra đã trải qua giai đoạn lạm phát chưa từng có và chế độ cai trị của các tỷ phú tham nhũng, gây ra tình trạng khốn khổ cho người dân.
Cuộc xung đột Nga – Ukraine là sự kiện quốc tế có ảnh hưởng thứ hai sau sự sụp đổ của Liên Xô sau Thế chiến II. Trước hết, cuộc xung đột Nga – Ukraine đã làm thay đổi mối quan hệ giữa châu Âu và Nga từ quan hệ hợp tác sang quan hệ thù địch, chuỗi cung ứng toàn cầu xuất hiện xu hướng tách rời, sự hội nhập của lục địa Á-Âu bị ảnh hưởng nghiệm trọng. Thứ hai, chiến tranh Nga-Ukraine đã khiến hệ thống 5 nước cường quốc Liên Hợp Quốc bị tác động nghiêm trọng, khiến trật tự quốc tế truyền thống bị ảnh hưởng to lớn. Điều quan trọng nhất là chiến tranh Nga-Ukraine đã đẩy nhanh tiến trình đối đầu Trung-Mỹ, và nhiều quốc gia như khối liên minh Châu Âu (EU), Đức buộc phải chọn bên giữa các phe, một bên là giữa Anh, Hoa Kỳ và một bên là Trung Quốc và Nga. Điều này đã ảnh hưởng đến kinh tế và làm thay đổi đáng kể trong chiến lược ngoại giao của họ.
Trước xung đột Nga – Ukraine, Liên Minh Châu Âu đã hưởng lợi thế nào ?
Liên Minh Châu Âu (EU) nên là một trong những khối kinh tế có phúc lợi tốt nhất trên thế giới. Theo thống kê của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế), phần lớn các quốc gia thành viên EU có thời gian làm việc trung bình mỗi ngày không vượt quá 6 giờ, trong đó Đức có thời gian làm việc trung bình mỗi ngày chỉ 5,2 giờ, còn Pháp là 5,8 giờ. Ngược lại, các quốc gia Đông Á lại nổi tiếng với văn hóa làm thêm giờ, Hàn Quốc có thời gian làm việc trung bình mỗi ngày là 7,8 giờ, Trung Quốc là 9,2 giờ và Việt Nam cũng dao động 8-9 giờ. Nếu bạn du lịch đến EU, bạn có thể nhận thấy nhiều nhân viên tan làm từ sớm sau 4 giờ chiều, thậm chí một số nơi còn bắt đầu áp dụng chế độ làm việc 4 ngày mỗi tuần. Ngoài ra, luật pháp EU còn quy định rằng các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho nhân viên có ít nhất 4 tuần nghỉ phép có lương, do đó vào mùa hè và mùa đông, Châu Âu thường có một lượng lớn du khách đi nghỉ dưỡng trên khắp thế giới.
Nhưng điều kỳ lạ là, mặc dù thời gian làm việc của EU rất ngắn và kỳ nghỉ lại rất dài, nhưng thu nhập bình quân đầu người và mức sống của EU vẫn cao hơn rõ rệt so với người Đông Á chăm chỉ. GDP bình quân đầu người của EU gần 40.000 USD, trong khi khu vực Tây Âu còn vượt 50.000 USD, mức sống cao hơn khu vực Đông Á. Tại sao thu nhập bình quân đầu người của người EU lại cao hơn người Đông Á dù họ không thích làm thêm giờ? Một phần nguyên nhân là do EU có lợi thế từ nền tảng cũ, là nơi sinh ra cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai. Liên minh châu Âu vẫn duy trì vị thế ưu thế trong nhiều lĩnh vực công nghệ cao và có thể kiếm lợi nhuận từ khắp nơi trên thế giới dựa vào giá trị gia tăng công nghệ.
Nhưng điều quan trọng hơn là trong 30 năm qua, EU đã hưởng quá nhiều lợi ích từ ngoại giao.
Sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, Cộng đồng Châu Âu (EC) đã mất đi một kẻ thù đáng sợ và Nga quốc gia kế thừa Liên Xô đang trong tình trạng suy yếu nghiêm trọng, hoàn toàn không có khả năng phát động chiến tranh quy mô lớn. Trung Quốc thì đẩy mạnh cải cách và mở cửa, tiếp nhận một lượng lớn các ngành công nghiệp thâm dụng lao động. Lúc này, Mỹ đang ở đỉnh cao của sức mạnh quốc gia, nhưng do lý do ý thức hệ và lịch sử, Mỹ vẫn nhắm mục tiêu chiến lược vào Trung Quốc và Nga. Người châu Âu bỗng nhiên nhận ra rằng họ có cơ hội đứng giữa Mỹ và Trung-Nga để tận dụng mâu thuẫn giữa hai bên nhằm thu lợi kinh tế.
Nga có nguồn năng lượng phong phú, do đó từ những năm 1990, Tây Âu đặc biệt là Đức, bắt đầu thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác năng lượng với Nga. Năm 1998, sau khi Thủ tướng Đức Gerhard Schröder nhậm chức, ông đã coi Nga là đối tác quan trọng nhất của Đức dựa trên đặc điểm khan hiếm tài nguyên dầu khí của Đức. Vì điều này, Schröder đã không ngần ngại mạo hiểm gây mâu thuẫn với Anh và Mỹ, nhiều lần thăm Nga, đặt nền móng cho sự hợp tác năng lượng giữa Đức và Nga. Dự án “Nord Stream 1” nổi tiếng chính là do Schröder chủ trì xây dựng, với công suất vận chuyển khí đốt hàng năm lên đến 55 tỷ mét khối, đủ để đáp ứng một nửa nhu cầu sử dụng khí đốt của Đức. Để đảm bảo tiến độ của dự án, Schröder thậm chí sau khi rời chức Thủ tướng còn đảm nhận vị trí quản lý cấp cao trong một doanh nghiệp năng lượng của Nga, duy trì mạch sống năng lượng của Đức.
Nhờ vào các đường ống dẫn năng lượng từ Nga, EU đã có được mức giá năng lượng cực kỳ thấp. Sau khi tính đến chi phí vận chuyển bằng đường biển, chi phí năng lượng của EU chỉ bằng một nửa so với các nước Đông Á. Đây chính là lý do quan trọng giúp EU duy trì sức cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất dù có chi phí nhân công cao. Sự hợp tác năng lượng giữa EU và Nga không chỉ mang lại nguồn thu lớn từ dầu khí cho Nga mà còn giúp EU giảm đáng kể chi phí sản xuất công nghiệp.
Tuy nhiên, người ta thường nói rằng trên đời này không có bữa trưa nào miễn phí. Đối với EU, mặc dù Nga có thể cung cấp năng lượng giá rẻ, nhưng một nước Nga mạnh mẽ cũng có thể tạo ra mối đe dọa địa chính trị cho EU. Khu vực Đông Âu có địa hình bằng phẳng, gần như không có chướng ngại tự nhiên nào để phòng thủ, và trong lịch sử, châu Âu thường xuyên bị đe dọa từ phía đông (bao gồm người Hung Nô, người Mông Cổ, và người Liên Xô).
Do đó, dù Nga có khao khát hòa nhập vào phương Tây đến đâu, họ vẫn bị phương Tây từ chối, bởi người Tây Âu hiểu rằng với lợi thế địa chính trị, một khi Nga trỗi dậy thành công, toàn bộ Tây Âu cộng lại cũng không phải là đối thủ của Nga. Hợp tác với Nga chẳng khác nào “nuôi ong tay áo.”
Trong thời cổ đại, người châu Âu có thể đã cố gắng xây dựng những hàng rào ngăn cách dựa vào các con sông (chủ yếu là sông Danube) để chống lại mối đe dọa từ phía đông. Nhưng trong thời hiện đại, người châu Âu đã tìm ra một cách mới, đó là dựa vào Mỹ, lấy sự bảo vệ quân sự của Mỹ để chống lại mối đe dọa từ Nga.
Với cơ chế NATO, Mỹ không chỉ cung cấp ô bảo vệ hạt nhân cho EU mà còn triển khai một lượng lớn quân đội tại EU, dựa vào nguyên tắc phòng thủ tập thể để răn đe Nga. Trong bối cảnh này, sau Chiến tranh Lạnh, các quốc gia EU đã cắt giảm mạnh chi tiêu quân sự, hầu hết các nước có chi tiêu quân sự chiếm chưa đến 2% GDP, thấp hơn nhiều so với Mỹ và Nga. Ngân sách EU nhờ đó tiết kiệm được một khoản lớn để tăng phúc lợi cho người dân. Không chỉ vậy, lực lượng quân đội Mỹ đóng quân tại châu Âu, với chi phí lớn, mỗi năm còn thúc đẩy việc làm ở các khu vực xung quanh, quả thật là một mũi tên trúng hai đích.
Từ những năm 1990 trở đi, nhờ vào giá lao động rẻ, Trung Quốc trở thành công xưởng của thế giới, điều này cũng mang lại lợi ích lớn cho EU. Do không có mâu thuẫn địa lý và lịch sử giữa Trung Quốc và EU, quan hệ thương mại song phương đã phát triển nhanh chóng. Từ năm 2020 trở đi, Trung Quốc liên tục là đối tác thương mại lớn nhất của EU, các sản phẩm giá rẻ từ Trung Quốc đã giúp giảm đáng kể chi phí sinh hoạt của người dân châu Âu, giúp họ trải qua hơn hai thập kỷ lạm phát thấp. Cùng một sản phẩm, chi phí sản xuất tại EU có thể cao gấp 4-6 lần so với tại Trung Quốc, hàng hóa sản xuất tại Trung Quốc đã nâng cao đáng kể chất lượng cuộc sống của người dân châu Âu. Tất nhiên, với tư cách là thị trường mang lại thặng dư thương mại lớn nhất cho Trung Quốc, nhu cầu nhập khẩu của EU cũng tạo ra hàng triệu việc làm cho Trung Quốc. Cả hai bên có thể nói là đôi bên cùng có lợi, và có thể xem là đối tác hợp tác tự nhiên.
Vì vậy, trong ba mươi năm qua, nhờ vào năng lượng giá rẻ từ Nga, quốc phòng giá rẻ từ Mỹ, và hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc, EU không chỉ duy trì được sự thịnh vượng về kinh tế mà còn cơ bản đáp ứng được nhu cầu an ninh quốc phòng. Chính sách ngoại giao của EU cũng luôn cố gắng duy trì sự cân bằng tinh tế giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga. Chủ nghĩa phản chiến và các giá trị phổ quát có sức hút mạnh mẽ trong EU, bởi vì thế giới càng hòa bình, vai trò của đạo đức càng được đề cao, và EU càng có thể tận hưởng lợi ích kinh tế to lớn này.
Tuy nhiên, mô hình kinh tế của EU lại phụ thuộc rất nhiều vào môi trường ngoại giao. Quan hệ giữa Trung Quốc, Mỹ và Nga nếu quá xấu hoặc quá tốt đều có thể dẫn đến sự sụp đổ của mô hình này. Trước năm 2018, Mỹ và Trung-Nga duy trì một trạng thái đấu tranh mà không phá vỡ hoàn toàn, EU vẫn có thể tận dụng cơ hội giữa hai phe lớn. Tuy nhiên, sau năm 2018, khi chiến tranh thương mại Trung-Mỹ bùng nổ, hai cường quốc mạnh nhất thế giới bắt đầu đối đầu toàn diện, mô hình kinh tế “đứng giữa hai dòng nước” của EU ngày càng khó duy trì. Cuộc chiến Nga-Ukraine năm 2022 đã chính thức tuyên bố sự phá sản của chính sách “đứng giữa” của EU, và EU sẽ buộc phải lựa chọn giữa lợi ích kinh tế và nhu cầu an ninh.
Vấn đề chia rẽ nội bộ của Liên Minh Châu Âu
Thực tế, EU không phải là một quốc gia thống nhất. Với tư cách là một thực thể chính trị nội bộ không hoàn chỉnh, EU vốn dĩ đã tồn tại hai vấn đề lớn. Một là vấn đề không thống nhất về tài chính và tiền tệ, dẫn đến mâu thuẫn giữa các nước Nam Âu và Bắc Âu; hai là vấn đề không thống nhất về lợi ích năng lượng và nhu cầu quốc phòng, gây ra mâu thuẫn giữa các nước Tây Âu và Đông Âu.
Là một tổ chức liên minh, EU tuy có một ngân hàng trung ương và một đồng tiền chung, nhưng lại không có chính sách tài chính thống nhất. Kể từ khi đồng Euro ra đời, các quốc gia Bắc Âu như Đức, với lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ trong ngành sản xuất, đã đẩy các nước Nam Âu (đặc biệt là Hy Lạp, Ý, Tây Ban Nha) vào tình trạng công nghiệp bị suy thoái. Do sử dụng đồng tiền chung, các quốc gia như Hy Lạp không thể dựa vào các biện pháp như phá giá tiền tệ để duy trì sức cạnh tranh công nghiệp, mà chỉ có thể đứng nhìn nền công nghiệp của mình bị hủy hoại. Họ không chỉ mất đi một lượng lớn việc làm mà còn mất đi các nguồn thuế quan trọng, dẫn đến việc phải sống dựa vào vay nợ. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu năm 2010.
Các quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất (các cường quốc sản xuất như Đức, Hà Lan) từ chối thực hiện chuyển giao tài chính cho các nước Nam Âu. Người Đức xem kỳ tích kinh tế sau khi đồng Euro ra đời là thành tựu của riêng họ, và quy kết sự phân hóa vùng miền là do sự lười biếng của người dân Nam Âu, mặc dù thời gian làm việc của người Đức còn ngắn hơn người dân Nam Âu. Điều này đã dẫn đến sự chia rẽ nội bộ đầu tiên trong EU vào năm 2010, khi Hy Lạp, Ý và các nước khác suýt nữa rời khỏi khu vực đồng Euro.
Cuối cùng, Đức đã miễn cưỡng dẫn đầu việc thúc đẩy một gói cứu trợ tài chính lên đến hàng nghìn tỷ Euro, nhưng với điều kiện là người dân Hy Lạp phải thực hiện các biện pháp thắt chặt tài chính. Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu tạm thời được giải quyết.
Mâu thuẫn về tài chính và tiền tệ có thể được giải quyết, nhưng mâu thuẫn về lợi ích năng lượng và nhu cầu quốc phòng lại rất khó khắc phục. Các quốc gia Đông Âu (đặc biệt là Ba Lan, Litva, Latvia, Estonia) nằm ở tuyến đầu chống lại Nga, mang theo những hận thù sâu sắc từ lịch sử và luôn lo lắng về việc bị Nga thôn tính, do đó từ góc độ lợi ích thực tế, họ tất yếu có thái độ phản đối Nga. Họ không chỉ ủng hộ việc cứng rắn với Nga mà còn mong muốn các quốc gia cốt lõi như Đức và Pháp cung cấp hỗ trợ quân sự nhất định.
Đặc biệt sau cuộc khủng hoảng Crimea năm 2014, trước sự bành trướng của Nga, các quốc gia Đông Âu lo ngại rằng họ sẽ trở thành nạn nhân tiếp theo như Ukraine, nên hy vọng Đức và Pháp sẽ đứng ra dẫn dắt EU để kiềm chế sự mở rộng quân sự của Nga.
Tuy nhiên, hy vọng này cuối cùng lại không được đáp ứng. Trước sự hấp dẫn của năng lượng giá rẻ, Đức và Pháp đã chọn chính sách xoa dịu. Vào đầu năm 2015, Đức và Pháp đã buộc Ukraine phải đàm phán với Nga và ký kết Thỏa thuận Minsk, lấy lý do nhu cầu khí đốt của họ không được đáp ứng. Thỏa thuận này không chỉ yêu cầu Ukraine chấp nhận việc Crimea bị cắt nhượng mà còn yêu cầu Ukraine công nhận quyền tự trị của khu vực Donbas.
Bắt đầu từ năm 2015, các quốc gia Đông Âu đã đẩy nhanh quá trình ngả theo Mỹ, đặc biệt là sau khi Joe Biden lên nắm quyền, chính sách ngoại giao của hầu hết các quốc gia Đông Âu gần như đi theo Anh và Mỹ thay vì Đức và Pháp, điều này trở thành một trở ngại lớn cho việc đàm phán giữa EU và Nga.
Ảnh hưởng của cuộc chiến Nga – Ukraine đối với Châu Âu
Trước khi nói đến ảnh hưởng của cuộc xung đột Nga -Ukraine đối với Châu Âu, việc nghiên cứu quá trình xung đột Nga – Ukraine là rất có ý nghĩa, với logic quan trọng nhất là: Thái độ thực sự của Mỹ đối với cuộc chiến Nga – Ukraine là gì?
Nhiều quan điểm cho rằng Mỹ kích thích cuộc chiến Nga – Ukraine và hỗ trợ Ukraine là để làm suy yếu Nga. Nếu quan điểm này đúng, thì trong giai đoạn đầu và giữa cuộc chiến khi Ukraine gặp khó khăn trong cuộc phản công, dường như sẽ chứng minh sự thất bại của chiến lược này của Mỹ. Bởi vì Nga không bị đánh bại nhanh chóng, mà ngược lại, nhờ vào nguồn lực dồi dào, tiếp tục đứng vững.
Trên thực tế, mục đích căn bản của Mỹ khi kích động khủng hoảng Ukraine không phải chỉ đơn thuần là làm suy yếu Nga, mà là để phá hoại sự hợp tác giữa châu Âu và Nga, khiến châu Âu và Nga rơi vào tình trạng nội bộ tranh chấp, tăng mức độ phụ thuộc của EU đối với Mỹ để buộc chặt các đồng minh này lại, qua đó lôi kéo các đồng minh vào mặt trận thống nhất để kìm hãm Trung Quốc.
Đối với Mỹ, có hai cơn ác mộng địa chính trị lớn: một là sự liên kết giữa Trung Quốc và Nhật Bản, hai là sự liên kết giữa châu Âu và Nga.
– Trung Quốc là quốc gia mạnh nhất về sức mạnh lục địa ở châu Á, Nhật Bản là quốc gia mạnh nhất về sức mạnh hải quân ở châu Á; nếu Trung Quốc và Nhật Bản liên kết, quân đội Mỹ sẽ không thể bảo vệ Tây Thái Bình Dương và chỉ có thể rút về quần đảo Hawaii.
– Mặt khác, châu Âu có nền công nghiệp phát triển, Nga có tài nguyên phong phú; nếu châu Âu và Nga liên kết, bờ đông Đại Tây Dương sẽ xuất hiện một siêu cường mạnh hơn nhiều so với Đức Quốc xã, khi đó bờ biển đông của Mỹ sẽ bị đặt trước nguy cơ bị xâm lược, có khả năng bị đổ bộ bất cứ lúc nào.
Do đó, theo góc độ này thì mức độ đe dọa của Mỹ sẽ là: liên kết châu Âu – Nga > liên kết Trung Quốc – Nhật Bản > liên minh Trung Quốc – Nga – Iran.
Đây là lý do tại sao Biden ngay sau khi nhậm chức chỉ một tháng đã phải kích thích tình hình Ukraine. Ukraine là chiếc đinh trong mối quan hệ giữa châu Âu và Nga; việc kích thích tình hình Ukraine có thể thành công trong việc làm rạn nứt mối quan hệ giữa châu Âu và Nga, đây là mục tiêu của Mỹ, cũng là mục tiêu của Anh trong suốt 400 năm thực hiện chính sách “cân bằng ngoài khơi -Offshore Balancing”.
Trong cuộc chiến kéo dài giữa Nga và Ukraine, ba quốc gia đã thu được lợi ích lớn, đó là Mỹ, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ.
– Ấn Độ nhờ vào chiến lược ngoại giao khôn ngoan, vừa có thể nhập khẩu dầu giá rẻ từ Nga, vừa có thể hưởng lợi từ việc tách rời chuỗi cung ứng toàn cầu, tiếp nhận nhiều ngành công nghiệp trung – thấp cấp từ các nhà đầu tư phương Tây chuyển từ Trung Quốc.
– Thổ Nhĩ Kỳ thì vừa làm trung gian trong thương mại khí đốt của Nga, vừa mua ngũ cốc từ Ukraine với giá thấp và bán lại cho các quốc gia phương Tây với giá cao, kiếm được nhiều ngoại tệ.
Những lợi ích mà Hoa Kỳ nhận được là đáng chú ý nhất, nhưng cũng là mờ nhạt nhất.
Kể từ khi cuộc chiến Nga – Ukraine bùng nổ, phương Tây đã viện trợ hơn 160 tỷ USD cho Ukraine, trong đó có viện trợ tài chính và quân sự, Mỹ đóng góp khoảng 75 tỷ USD, còn EU đóng góp khoảng 80 tỷ USD. Mặc dù nhìn có vẻ như Mỹ gánh chịu phần lớn viện trợ, thực tế không phải vậy.
Trước tiên, sau khi cuộc chiến Nga – Ukraine nổ ra, kim ngạch thương mại giữa EU và Nga đã giảm mạnh, từ 300 tỷ euro/năm trước chiến tranh giảm xuống còn 70 tỷ euro/năm và xu hướng tiếp tục giảm. Quan hệ thương mại giữa Nga và EU rất bổ sung cho nhau, Nga cung cấp khí đốt, dầu mỏ và than giá rẻ cho châu Âu, trong khi châu Âu cung cấp máy móc thiết bị và dụng cụ chính xác cho Nga. Tuy nhiên cuộc chiến đã làm mối quan hệ thương mại tan vỡ.
Thứ hai, từ năm 2022 châu Âu đã gia tăng sự phụ thuộc quân sự vào Mỹ. Trước chiến tranh, chi tiêu quốc phòng của EU chỉ chiếm 1,3% GDP. Sau khi cuộc chiến Nga – Ukraine bùng nổ, EU dự định tăng tỷ lệ chi tiêu quốc phòng lên 2% GDP, điều này có nghĩa là chi tiêu quân sự hàng năm của EU sẽ tăng thêm 130 tỷ USD. Chúng ta biết rằng năng lực quân sự của Liên minh Châu Âu là khá yếu, với quân đội Đức bị hạn chế do ngành công nghiệp phát triển, còn giá vũ khí của Pháp lại quá đắt đỏ, do đó một phần lớn ngân sách quân sự tăng thêm của Liên minh Châu Âu sẽ được dùng để mua vũ khí từ Mỹ.
Trên thực tế, kể từ khi xung đột nổ ra, nhiều quốc gia Châu Âu đã gia tăng việc mua sắm vũ khí từ Mỹ. Đức đã đặt hàng hơn 30 máy bay chiến đấu F-35 từ Mỹ; Ba Lan đã chi 10 tỷ đô la để mua các loại vũ khí như pháo phản lực HIMARS, tên lửa chiến thuật mặt đất và xe tăng chiến đấu chính M1A2 từ Mỹ. Theo ước tính, một phần ba trong số hơn 100 tỷ đô la chi phí quân sự tăng thêm hàng năm của Liên minh Châu Âu sẽ được dùng để mua vũ khí của Mỹ. Phần lớn viện trợ quân sự hàng năm từ phương Tây dành cho Ukraine cũng là vũ khí của Mỹ. Không chỉ vậy, trước chiến tranh, Nga là quốc gia đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu vũ khí; nhưng do ảnh hưởng của chiến tranh, xuất khẩu vũ khí của Nga đã giảm mạnh, và thị phần đã bị vũ khí của Mỹ chiếm lĩnh. Cuộc chiến kéo dài giữa Nga và Ukraine tạo ra đơn hàng vũ khí cho Mỹ vượt quá 100 tỷ đô la mỗi năm, và với tỷ suất lợi nhuận 15%, Mỹ có thể kiếm thêm 15 tỷ đô la lợi nhuận từ các đơn hàng vũ khí hàng năm.
Kể từ khi xung đột Nga – Ukraine bùng nổ, giá cổ phiếu của các công ty sản xuất vũ khí Mỹ đã tăng vọt, chẳng hạn như công ty nổi tiếng Lockheed Martin. Giá cổ phiếu của Lockheed Martin đã tăng từ 320 đô la lên 500 đô la, tăng hơn 50%. Điều này không có gì ngạc nhiên, vì một chiếc F-35 có giá lên tới 300 triệu đô la. Trong năm qua, Lockheed Martin đã liên tục ký hợp đồng cung cấp máy bay F-35 cho các nước châu Âu, khiến các cổ đông lớn (như BlackRock) đếm tiền đến mỏi tay.
Kể từ khi chiến tranh bắt đầu, cả Nga và Ukraine đã tiêu tốn hết kho đạn dược từ thời Liên Xô. Nga đã bắn 12 triệu quả đạn trong năm 2023, làm hỏng khoảng 4.000 nòng pháo. Do thiếu đạn dược, lượng đạn bắn ra của Nga đã giảm từ 50.000 quả/ngày xuống còn 15.000 quả/ngày. Phía Ukraine cũng gặp tình trạng thiếu đạn, toàn bộ đạn pháo 152 mm từ thời Liên Xô đã hết, và họ phải hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ phương Tây. Tuy nhiên, sau chiến tranh lạnh, các dây chuyền sản xuất đạn của phương Tây hầu như đã bị bỏ rơi, dẫn đến tình trạng thiếu đạn. Giá mỗi quả đạn pháo 155 mm đã tăng từ 2.000 euro lên 3.300 euro, với tỷ suất lợi nhuận tăng vọt lên hơn 70%. Trong tương lai, Mỹ dự định cung cấp 1 triệu quả đạn cho Ukraine mỗi năm, điều này đồng nghĩa với việc các nhà sản xuất đạn của Mỹ có thể kiếm thêm 1,5 tỷ đô la mỗi năm.
Không chỉ vậy, Mỹ còn hưởng lợi lớn từ việc tách rời nguồn năng lượng giữa Châu Âu và Nga. Trước khi xảy ra xung đột Nga – Ukraine, Châu Âu xuất khẩu hơn 100 tỷ euro mỗi năm sang Nga, trong đó có nhiều thiết bị máy móc; trong khi Nga xuất khẩu gần 200 tỷ euro mỗi năm sang Châu Âu, trong đó 100 tỷ là năng lượng. Kể từ khi chiến tranh bùng nổ năm ngoái, Châu Âu đã dần tách rời nguồn năng lượng từ Nga, Đức đã giảm lượng nhập khẩu than, khí đốt và dầu mỏ từ Nga xuống còn 0. Để giải quyết khủng hoảng năng lượng, Liên minh Châu Âu đã chuyển sang nhập khẩu năng lượng từ Mỹ, Anh, Na Uy và Qatar, trong đó Mỹ giành được phần thị trường lớn nhất, chiếm khoảng 1/3 thị trường năng lượng của Châu Âu – Nga, tương đương với 40 tỷ đô la. Do giá năng lượng tăng, tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu năng lượng của Mỹ sang Châu Âu khoảng 25%, nghĩa là Mỹ có thể kiếm thêm 10 tỷ đô la lợi nhuận năng lượng mỗi năm từ Liên minh Châu Âu.
Có thể nói, cuộc chiến kéo dài giữa Nga và Ukraine là một bữa tiệc thu hoạch tài sản cho các công ty quân sự và năng lượng của Mỹ, với số lượng đơn hàng nhiều đến mức không thể tuyển đủ công nhân dù có tăng lương. Đây là một trong những lý do khiến lạm phát ở Mỹ vẫn ở mức cao.
Bên cạnh việc gây tổn thất cho Liên minh Châu Âu, cuộc chiến kéo dài cũng gây ra tổn thất lớn cho Nga. Do phải tuyển nhiều lính hợp đồng ra chiến trường và chi phí sản xuất/bảo trì vũ khí, chi phí chiến tranh hàng năm của Nga gần 200 tỷ đô la (tỷ giá rúp thường xuyên thay đổi, do đó con số này cũng sẽ dao động), chiếm khoảng 10% GDP và 40% thu ngân sách. Vì vậy, nếu cuộc chiến kéo dài, ngân sách của Nga có thể sẽ sớm bị sụp đổ.
Cuối cùng, hãy cùng tính toán lợi ích và bất lợi của cuộc chiến kéo dài giữa Nga và Ukraine đối với Mỹ theo bài toán giả định. Mỹ mỗi năm cung cấp khoảng 75 tỷ đô la viện trợ cho Ukraine, nhưng điều này có thể mang lại hơn 100 tỷ đô la đơn hàng vũ khí và 40 tỷ đô la đơn hàng năng lượng, tương ứng với lợi nhuận 15 tỷ đô la từ vũ khí và 10 tỷ đô la từ năng lượng. Sau khi trừ đi lợi ích, chi phí thực tế của Mỹ chỉ còn khoảng 50 tỷ đô la.
Nếu coi Liên minh Châu Âu và Nga như một tổng thể, thì thương mại giữa Châu Âu và Nga đã giảm từ 300 tỷ euro/năm trước chiến tranh xuống còn khoảng 70 tỷ euro/năm và xu hướng giảm vẫn tiếp tục. Do Châu Âu và Nga có nền kinh tế bổ sung cao, phần thiệt hại này rất khó được bù đắp. Do đó, Châu Âu và Nga mỗi năm đã mất khoảng 250 tỷ đô la tài sản.
Để hỗ trợ Ukraine, Liên minh Châu Âu mỗi năm phải chi 80 tỷ đô la cho viện trợ tài chính và quân sự. Ngoài ra, để đối phó với mối đe dọa từ Nga, chi tiêu quân sự của Liên minh Châu Âu sẽ tăng thêm hơn 100 tỷ đô la mỗi năm, số tiền này chỉ có thể được cắt giảm từ chi phí phúc lợi xã hội. Trong một mức độ tổng thể, xã hội phúc lợi cao của Châu Âu được xây dựng trên nền tảng chi tiêu quân sự thấp, và chi tiêu quân sự tăng chỉ có thể được bù đắp bằng cách trì hoãn tuổi nghỉ hưu.
Nga mỗi năm phải chi 200 tỷ đô la cho chi phí chiến tranh, bao gồm cả tổn thất trực tiếp và gián tiếp. Để huy động tiền, Nga buộc phải giảm lương công chức và giảm chi trả lương hưu, trong khi chi tiêu cho dân sinh và giáo dục được cắt giảm đến mức tối đa. Do phần lớn dự trữ ngoại tệ bị đóng băng, Nga buộc phải bán vàng và ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế, nếu không tỷ giá rúp sẽ giảm mạnh.
Tổng cộng là 250 + 80 + 100 + 200 = 630 tỷ đô la. Điều đó có nghĩa là Mỹ chỉ mất khoảng 50 tỷ đô la mỗi năm để khiến Châu Âu và Nga mất hơn 600 tỷ đô la, tỷ lệ đòn bẩy vượt quá 12 lần, có thể nói là chi tiền ít nhưng đạt hiệu quả lớn.
Đảng Dân chủ nhận được lợi ích về ngoại giao và ý thức hệ, trong khi Đảng Cộng hòa nhận được khoản đóng góp chính trị khổng lồ từ các công ty quân sự và năng lượng. Cả hai đảng đều rất muốn cuộc chiến giữa Nga và Ukraine tiếp tục. Việc Ukraine gặp khó khăn trong cuộc phản công không phải là thất bại chiến lược của Mỹ, mà ngược lại, là dấu hiệu của sự thành công chiến lược của Mỹ. Việc tiếp tục bế tắc giữa hai bên mới là kết quả mà Mỹ muốn thấy nhất. Làm sao người bán ô lại hy vọng mưa kết thúc chứ.
Nếu Mỹ, Ấn Độ, và Thổ Nhĩ Kỳ là những người chiến thắng trong cuộc chiến kéo dài giữa Nga và Ukraine, thì Liên minh Châu Âu, Nga và Ukraine là những người thua cuộc.
– Liên minh Châu Âu đã phải trả giá về mặt kinh tế. Không chỉ phải chi trả các khoản viện trợ đắt đỏ cho Ukraine, mà còn mất đi nguồn năng lượng giá rẻ, khiến lạm phát của Châu Âu cao hơn 3 điểm phần trăm so với Mỹ, nơi lạm phát chủ yếu do in tiền không kiểm soát.
– Nga đã phải trả giá về mặt quân sự. Từ vị trí quốc gia quân sự lớn thứ hai thế giới, Nga đã chứng kiến sự sụp đổ của mình, với một lượng lớn vũ khí bị phá hủy và tình trạng phi quân sự hóa áp đặt lên chính mình.
– Ukraine phải trả giá về mặt nhân khẩu. Gần một nửa số thanh niên trong nước đã rời bỏ đất nước, khiến một quốc gia vốn đã bị lão hóa đối mặt với tình trạng cạn kiệt nguồn nhân lực.
Sự thay đổi chính sách đối ngoại của Đức
Chiến tranh Nga-Ukraine đã dẫn đến sự thay đổi chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia, trong đó sự thay đổi lớn nhất chính là Đức.
Một điều chắc chắn là Đức là quốc gia bị thiệt hại nặng nề nhất đối với nền kinh tế toàn cầu kể từ khi xung đột. Trước khi chiến tranh Nga – Ukraine bùng nổ, nền kinh tế Đức vẫn duy trì được mức tăng trưởng 2,5%, được mệnh danh là “động cơ kinh tế của châu Âu”.
Tuy nhiên, sau khi chiến tranh nổ ra, Đức buộc phải cắt đứt quan hệ năng lượng với Nga, trong khi trước đây Đức có thể nhập khẩu 55 tỷ mét khối khí đốt giá rẻ từ Nga mỗi năm, thì nay phải mua với giá cao từ Mỹ. Không chỉ vậy, để đảm bảo an ninh châu Âu, Đức đã thành lập quỹ quốc phòng trị giá 100 tỷ USD, trong đó một phần lớn được sử dụng để mua vũ khí từ Mỹ. Là nền kinh tế lớn nhất châu Âu, Đức phải gánh phần lớn trong việc hỗ trợ Ukraine của Liên minh châu Âu, đồng thời tiếp nhận hàng triệu người tị nạn Ukraine. Mỗi tháng, Đức phải cung cấp trợ cấp 500 euro cho mỗi người tị nạn, và khoản tiền này chỉ có thể lấy từ quỹ lương hưu của người dân Đức.
Nhưng kể từ đầu năm 2023, chính sách của Đức đối với Nga đã trở nên cứng rắn hơn. Đức không chỉ phê duyệt việc cung cấp xe tăng Leopard 2 cho Ukraine mà còn hỗ trợ Ukraine một lượng lớn tài chính. Chính sách ngoại giao của Đức đã có sự thay đổi 180 độ, trở thành một trong những quốc gia phương Tây tích cực hỗ trợ Ukraine nhất. Tại sao lại có sự thay đổi này?
Có ba nguyên nhân chính:
– Thứ nhất Đức và Nga đã hoàn tất việc tách rời về năng lượng, nên Đức không còn phải phụ thuộc vào khí đốt từ Nga. Sau khi khẩn trương xây dựng hàng loạt trạm tiếp nhận khí tự nhiên hóa lỏng (LNG), Đức đã không còn thiếu khí đốt. Tính đến thời điểm hiện tại, mức dự trữ khí đốt của EU khoảng 90%, cao hơn nhiều so với mức trung bình lịch sử. Điều này có nghĩa rằng châu Âu sẽ không gặp khó khăn lớn trong việc đối phó với mùa đông. Nga đã mất đi con bài năng lượng của mình, và chính sách của Đức đối với Nga đã chuyển từ nhượng bộ sang cứng rắn.
– Thứ hai lợi ích mà Đức nhận được từ Liên minh châu Âu lớn hơn nhiều so với từ Nga, nên cuối cùng họ đã chọn đứng về phía châu Âu. Trong thời kỳ của Angela Merkel, Đức là quốc gia hưởng lợi từ chủ nghĩa đa phương: họ nhận năng lượng giá rẻ từ Nga, quốc phòng giá rẻ từ Mỹ, hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc, và lao động giá rẻ từ các quốc gia Đông Âu. Tuy nhiên, khi cuộc chiến Nga-Ukraine nổ ra, Đức buộc phải chọn phe. Mặc dù Nga mỗi năm cung cấp cho Đức nguồn năng lượng giá rẻ trị giá 50 tỷ USD, nhưng số tiền mà Đức kiếm được từ các nước Đông Âu vượt quá 100 tỷ USD mỗi năm, chênh lệch đáng kể về quy mô. Ngoài ra, với tư cách là nước bại trận trong Thế chiến II, ảnh hưởng ngoại giao của Đức cần dựa vào nền tảng EU để phát huy, điều này không thể đo lường bằng tiền bạc. Cuối cùng, Đức đã chọn đứng về phía châu Âu và từ bỏ lập trường thân Nga.
– Thứ ba và quan trọng nhất: Đức hy vọng thông qua việc đánh bại Nga để giành lấy vị thế của một quốc gia chiến thắng. Là nước bại trận trong Thế chiến II, địa vị chính trị của Đức rất thấp. Không chỉ có quân đội Mỹ đóng quân trên lãnh thổ Đức, mà Đức còn bị hạn chế trong việc phát triển vũ khí hạt nhân và công nghiệp quốc phòng. Do đó, mặc dù có nền kinh tế phát triển, sức mạnh tổng hợp của Đức cũng chỉ tương đương với Pháp. Kể từ sau Thế chiến II, nguyện vọng lớn nhất của người dân Đức là thoát khỏi danh phận của một nước bại trận để trở thành một quốc gia bình thường.
Nhưng việc thoát khỏi danh phận quốc gia bại trận không hề dễ dàng. Trong Thế chiến II, Đức bị đánh bại bởi liên minh giữa Liên Xô và Anh-Mỹ. Vì vậy, để thoát khỏi danh phận này, Đức chỉ có hai cách:
– Làm suy yếu Anh-Mỹ và đuổi quân đội Anh-Mỹ khỏi lãnh thổ Đức.
– Đánh bại Liên Xô (Nga), chuyển danh phận quốc gia bại trận sang người Nga.
Điểm thứ hai khá dễ hiểu, từng có trường hợp tương tự trong lịch sử. Sau khi Liên quân tám nước xâm lược Trung Quốc, Trung Quốc từng bị coi là quốc gia bại trận, phải ký Hiệp ước Tân Sửu (Boxer Protocol) nhục nhã và trả tiền bồi thường cho các cường quốc. Tuy nhiên, sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, khi Trung Quốc gia nhập phe Hiệp ước, nước này đã giành được danh phận quốc gia chiến thắng, từ đó tự động thoát khỏi thân phận quốc gia bại trận và không còn phải bồi thường cho Đức-Áo nữa.
Trong Thế chiến II, Đức bị Liên Xô đánh bại. Nếu một ngày nào đó Đức đánh bại Nga, quốc gia này sẽ tự động thoát khỏi danh phận bại trận và trở thành một quốc gia bình thường. Trong gần một thế kỷ qua, Đức có hai đối thủ lớn, một là Mỹ và hai là Liên Xô (Nga). Số phận của Đức có liên quan chặt chẽ đến sự thăng trầm của hai quốc gia này. Thời kỳ thuận lợi nhất cho Đức về môi trường quốc tế là vào những năm 1930, khi Mỹ theo đuổi chính sách cô lập và Liên Xô bị cô lập bởi cộng đồng quốc tế. Điều này đã mang lại cho Đức cơ hội mở rộng chưa từng có. Ngược lại, thời kỳ tồi tệ nhất của Đức là trong Chiến tranh Lạnh, khi cả Mỹ và Liên Xô đều ở đỉnh cao quyền lực, và Đức buộc phải chia cắt.
Đức là người chiến thắng lớn nhất sau sự sụp đổ của Liên Xô
Vào những năm 90, sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, Đức bước vào giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ. Đông Đức và Tây Đức tiến tới thống nhất, không những vậy, với sự mở rộng về phía Đông của Liên minh châu Âu, các quốc gia Đông Âu như Ba Lan, Litva, Séc, Hungary và Romania đều trở thành các vùng kinh tế hậu phương của Đức, cung cấp cho Đức một thị trường rộng lớn và hàng chục triệu lao động giá rẻ.
Với hơn 80 triệu người Đức, trong đó có một phần tư có nền tảng di cư, Đức là quốc gia di cư đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ. Những người di cư này không chỉ trẻ tuổi mà còn có trình độ học vấn cao và văn hóa gần gũi với Đức, điều này đã làm giảm đáng kể vấn đề thiếu hụt lao động ở Đức. Vì vậy nền kinh tế Đức đã tránh được sự suy thoái kiểu Nhật Bản, trở thành quốc gia thịnh vượng nhất châu Âu.
Sau khi Liên Xô tan rã mối đe dọa từ phía Đông giảm đi đáng kể, mục tiêu chiến lược của Đức bắt đầu chuyển hướng liên kết với Nga để chống Mỹ. Các đời Thủ tướng từ Kohl, Schröder đến Merkel liên tục thúc đẩy hợp tác năng lượng Đức-Nga, và sử dụng sức mạnh của Nga để làm suy yếu ảnh hưởng của Anh và Mỹ, mở đường cho chiến lược tự chủ của Đức.
Năm 2003 Đức, Pháp và Nga đã cùng nhau phản đối Mỹ xâm lược Iraq, đây là lần đầu tiên kể từ sau Thế chiến II, Đức bỏ phiếu chống lại Mỹ trong một vấn đề quan trọng quốc tế. Đáp lại, Pháp và Nga công khai ủng hộ việc Đức trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Năm 2004, dự án “Nord Stream 1” được khởi xướng, đường ống dẫn khí đốt này mỗi năm có thể cung cấp 55 tỷ mét khối khí đốt cho Đức, đáp ứng hơn một nửa nhu cầu khí đốt của nước này, mang lại lợi ích cho cả Đức và Nga.
Năm 2010, đối mặt với khủng hoảng nợ công châu Âu, Đức đã hy sinh phúc lợi xã hội của mình để huy động 700 tỷ euro cứu trợ các quốc gia Nam Âu, cuối cùng dẫn dắt khu vực đồng euro thoát khỏi suy thoái và giành được niềm tin của cộng đồng quốc tế.
Năm 2016, với việc Anh rời EU, nguy cơ chia rẽ trong Liên minh châu Âu xuất hiện. Đức đã mạnh mẽ đàm phán với Anh, giảm thiểu tác động của Brexit và làm suy yếu tiếng nói của Anh tại châu Âu.
Năm 2018, khi Trump theo đuổi chủ nghĩa biệt lập, một làn sóng chống toàn cầu hóa xuất hiện. Đức không chọn cách cùng Mỹ thực hiện chính sách biệt lập, mà thay vào đó cùng Trung Quốc gánh vác ngọn cờ toàn cầu hóa. Đức và Trung Quốc suýt chút nữa đã đạt được Thỏa thuận Thương mại Tự do Trung – Âu.
Có thể nói, từ cuối những năm 90, Đức đã luôn theo đuổi sự tự chủ chiến lược và độc lập chính trị, nỗ lực làm suy yếu sự kiểm soát của Anh và Mỹ đối với lục địa châu Âu. Đức, Pháp, Nga và Trung Quốc đã cố gắng hình thành một mặt trận thống nhất, cùng nhau thúc đẩy sự hội nhập của lục địa Á – Âu. Trước khi chiến tranh Nga-Ukraine nổ ra, điều này đã đạt được những thành tựu đáng kể. Trung Quốc và Nga đã chuẩn bị sử dụng đồng euro để thanh toán cho các giao dịch năng lượng, và một khi thành công, việc phi đô la hóa sẽ không còn là giấc mơ xa vời.
Nói cách khác, từ những năm 90 đến những năm 2010, chiến lược cốt lõi của Đức là hợp tác với Trung Quốc, Pháp và Nga để cùng nhau thúc đẩy sự tự chủ về ngoại giao của châu Âu và thế giới đa cực.
Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng Ukraine, Đức cũng trở thành một trong hai quốc gia bị động trong ngoại giao. Trước cuộc chiến Nga-Ukraine, do phụ thuộc vào quốc phòng của Mỹ và không muốn từ bỏ năng lượng giá rẻ của Nga, Đức không thể ngăn chặn Biden khuấy động tình hình Ukraine trong ngoại giao, cũng không thể ngăn chặn quyết tâm chiến tranh của Putin về mặt quân sự, cuối cùng chỉ có thể đứng nhìn cuộc chiến Nga-Ukraine diễn ra. Sau khi cuộc chiến Nga-Ukraine bùng nổ, mặc dù Đức không muốn làm mất lòng Nga hoàn toàn nhưng cũng phải làm gì đó để thể hiện với các quốc gia Đông Âu, vì vậy chỉ có thể lúng túng cung cấp vũ khí cho Ukraine, do đó, Đức không chỉ phải chịu đựng sự đe dọa của Nga mà còn phải chịu đựng sự chỉ trích của người Ukraine.
Con đường trung dung khi làm tốt thì có thể làm hài lòng cả hai bên, khi không tốt thì phải nhận chỉ trích từ cả hai bên, Đức rơi vào trường hợp sau. Hiện nay, Đức không còn hưởng lợi từ khí đốt tự nhiên giá rẻ của Nga và cũng mất quyền lãnh đạo EU vì đã làm mất lòng các quốc gia Đông Âu.
Đặc biệt là sự bế tác của cuộc chiến liên tục bị kéo dài, đã khiến chính sách đối ngoại của Đức thay đổi căn bản, từ liên kết với Nga chống Mỹ chuyển sang liên kết với Mỹ để chống lại Nga. Đức không còn theo đuổi việc làm suy yếu Mỹ, mà thay vào đó can dự sâu vào cuộc chiến Nga-Ukraine, giúp Ukraine đánh bại Nga, và cuối cùng chia sẻ vị thế của bên thắng cuộc. Nếu mục tiêu này đạt được, vị thế quốc tế của Đức sẽ tăng lên đáng kể và việc trở lại bình thường của quốc gia sẽ không còn là ảo tưởng.
Đức giống như một kẻ đứng giữa, đặt cược vào cả hai phía Anh-Mỹ và Trung-Nga. Nếu Trung-Nga chiếm ưu thế, Đức sẽ thúc đẩy sự hội nhập kinh tế giữa Á – Âu. Nếu Anh-Mỹ chiếm ưu thế, Đức sẽ giương cao ngọn cờ của thế giới tự do. Trong tương lai, viện trợ của Đức cho Ukraine có thể sẽ gia tăng, cung cấp nhiều vũ khí sát thương hơn và viện trợ tài chính nhiều hơn. Điều này không chỉ giúp thu hút các quốc gia Đông Âu, tăng cường tiếng nói của Đức trong Liên minh châu Âu mà còn giúp Đức có thêm nhiều con bài trong các cuộc đàm phán sau này.
Việc ủng hộ Ukraine đồng nghĩa với việc làm mất lòng Nga, và miền Đông Ukraine sẽ trở thành chiến trường cho cuộc đối đầu vũ khí giữa Đức và Nga. Với sự phát triển của năng lượng tái tạo, trong tương lai, Đức có thể không cần nhiều đến nguồn năng lượng dầu khí từ Nga nữa, và “viên đá tảng” trong quan hệ Đức-Nga sẽ không còn tồn tại. Trong một thời gian dài, quan hệ Đức-Nga rất khó có thể quay trở lại như trước đây.
Đối với Châu Âu cuộc xung đột Nga- Ukraine đã ảnh hưởng kinh tế và chính trị nghiêm trọng, dẫn đến xu hướng cực hữu lên nắm quyền, khi chiến tranh Nga-Ukraine tiếp tục kéo dài, trong tương lại Đông Âu và Tây Âu có khả năng nảy sinh mâu thuẫn nghiêm trọng về vấn đề an ninh, với việc người dân các nước Tây Âu từ chối gánh vác nghĩa vụ quân sự cho các quốc gia Đông Âu. Cuối cùng, EU có thể dẫn đến sự tan rã, và các quốc gia như Ba Lan, Lithuania, Thụy Điển, Phần Lan sẽ hoàn toàn ngả về phía Anh-Mỹ, đồng thời thành lập “Liên minh Baltic” để đưa quân đến Ukraine, dẫn đến xung đột quân sự trực tiếp với Nga.
Trên cơ sở EU cũ, châu Âu có thể hình thành hai khối mới. Một là liên minh kinh tế chủ yếu gồm các quốc gia thuộc khối tiếng Đức như Đức và Hà Lan, sử dụng đồng “Euro mới”. Hai là liên minh an ninh gồm Ba Lan và các nước Baltic, với mục đích ngăn chặn sự mở rộng của Nga ở Đông Âu.