Nước Nga từ quá khứ đến hiện tại (phần 1)

Tháng mười 26, 2024

1.Người Mông Cổ

Sau sự trỗi dậy của Thành Cát Tư Hãn, quân đội Mông Cổ tiến hành các cuộc viễn chinh về phía Tây, tiêu diệt hàng loạt quốc gia bao gồm Tây Hạ, Khwarezm, và Kiev Rus. Sau khi Kiev Rus bị diệt vong, vương quốc này chia thành ba phần: một phần nằm ở vùng đất của Nga ngày nay bị người Mông Cổ cai trị; một phần ở Ukraine ngày nay bị Ba Lan cai trị; và một phần ở Belarus ngày nay bị Lithuania cai trị.

Sau hơn 200 năm bị người Mông Cổ cai trị, người Nga cũng trở nên hiếu chiến, bạo lực, nghiện rượu, thô bạo và chuyên chế. Người Nga không chỉ thừa kế kỹ năng chiến tranh của người Mông Cổ mà còn cả tính tham lam đối với mở rộng đất đai. Trong thời kỳ cận đại và hiện đại, Nga đã xâm chiếm rất nhiều lãnh thổ của các nước láng giềng, từ một quốc gia với diện tích vài trăm nghìn km² đã mở rộng thành một siêu cường với hàng chục triệu km².

Đế chế La Mã có một vị trí lịch sử quan trọng ở phương Tây vì không chỉ ban hành Luật 12 Bảng, đặt nền tảng cho pháp luật hiện đại, mà còn thống nhất phần lớn châu Âu. Sau khi Đế chế La Mã phân rã, các quốc gia châu Âu đều cố gắng tranh giành danh hiệu người thừa kế chính thống của La Mã. Lý do rất đơn giản: ai có thể trở thành người thừa kế chính thống của Đế chế La Mã thì sẽ có quyền pháp lý để thống nhất châu Âu.

Lý do của dân tộc Đức như sau:

Lý do của dân tộc Nga như sau:

Nga từ lâu đã ngưỡng mộ nền văn minh La Mã. Đế quốc Đông La Mã đã sử dụng tiếng Hy Lạp và tiếng Nga cũng phát triển từ tiếng Hy Lạp. Đế chế Đông La Mã tôn sùng Chính Thống giáo và sau này Nga cũng cải đạo sang Chính Thống giáo. Sau khi Công chúa Sophia kết hôn với Đại công tước Moscow, Nga đã áp dụng các nghi lễ và trang phục của Đế chế Đông La Mã.

Đại bàng La Mã, Đại bàng Nga, Đại bàng Đức

Đại bàng La Mã, Đại bàng Nga, Đại bàng Đức

Nga cũng kế thừa lá cờ đại bàng của Đế chế La Mã, và Đức cũng kế thừa lá cờ đại bàng La Mã ở một mức độ nào đó, cả Đức và Nga đều có tham vọng thống nhất châu Âu. Mặt khác, sau khi Đế chế Đông La Mã sụp đổ, trung tâm của Giáo hội Chính thống giáo dần chuyển từ Constantinople đến Moscow, điều này đã tạo cho người Nga một sứ mệnh tôn giáo, đó là chống lại sự xâm lăng của những người ngoại đạo. Trong thời kỳ cận đại, Nga đã tham gia 12 cuộc chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ, không chỉ vì Nga muốn mở rộng lãnh thổ ven Biển Đen mà còn vì Nga, là một quốc gia Chính thống giáo, có mối thù truyền kiếp với Thổ Nhĩ Kỳ, một quốc gia Hồi giáo. Nhiều thanh niên Nga theo đạo trở nên cực kỳ phấn khích khi nghe nói về các cuộc chiến chống Thổ Nhĩ Kỳ, họ sẵn sàng dấn thân vào chiến trường.

Nga tin rằng chính sự hy sinh anh dũng của họ đã cứu các quốc gia châu Âu khỏi tay kẻ xâm lược. Nga luôn cho rằng bước ngoặt của các cuộc chiến tranh Napoleon là trận hỏa hoạn Moscow, chứ không phải trận Waterloo, và bước ngoặt của Thế chiến II là trận Stalingrad, chứ không phải cuộc đổ bộ Normandy. Nga cho rằng chính họ là người bảo vệ hòa bình châu Âu, trong khi người Nga cho rằng Anh và Mỹ, những người tự xưng là giải phóng châu Âu chỉ đến để cướp lấy chiến thắng.

Napoleon Bonaparte từng nói: “Trên thế giới chỉ có hai loại sức mạnh: một là gươm, hai là tư tưởng, nhưng về lâu dài, tư tưởng luôn chiến thắng gươm.”

Trong thời kỳ cận đại, nước Nga có hai vị đại đế nổi bật: Peter Đại đế và Catherine II. Cả hai vị sa hoàng này đều có vị thế cao trong lịch sử nước Nga, không chỉ vì họ mở rộng lãnh thổ giúp Nga có được các lối ra biển Baltic và Biển Đen, mà còn vì họ đã dẫn dắt nước Nga tiến tới sự Tây phương hóa.

– Đánh bại kẻ thù mạnh là Thụy Điển, giành quyền kiểm soát lối ra biển Baltic và xây dựng thành phố St. Petersburg, cùng một hải quân hùng mạnh (Peter Đại đế từng nói: “Hãy cho tôi 20 năm, tôi sẽ trả lại cho các bạn một nước Nga kỳ diệu”).

Không quá khi nói rằng Peter Đại đế là cha đẻ của hiện đại hóa Nga. Nếu không có ông, Nga sẽ không thể trở thành cường quốc thế giới trong thời kỳ cận đại. Ông được xem là một trong những nhà cải cách vĩ đại nhất lịch sử.

– Đánh bại Thổ Nhĩ Kỳ, giành được lối ra Biển Đen, chiếm đóng Crimea và Ukraine. Bà cũng hợp tác với Phổ và Áo để chia cắt Ba Lan. Tuy nhiên, sự mở rộng lãnh thổ của Nga trong thời gian này phần lớn nhờ vào việc Anh và Pháp, hai cường quốc hàng đầu lúc đó, đang bị lôi cuốn vào các vấn đề nội bộ: Anh đang vướng vào Chiến tranh giành độc lập của Bắc Mỹ, còn Pháp thì đối mặt với cuộc Cách mạng Pháp.

Dù không hạnh phúc trong hôn nhân, khi bà bị coi chỉ là công cụ sinh đẻ khi mới về Nga, nhưng trên chính trường bà lại rất thành công. Catherine II không chỉ chiến thắng trên chiến trường mà còn mang văn hóa và tư tưởng phương Tây vào Nga. Những người cai trị nam giới cùng thời với bà ở châu Âu gần như không ai là đối thủ của bà.

Alexander Đại đế

Alexander Đại đế

Nga có rất nhiều người đặt tên Alexander. Đó là bởi vì Alexander Đại đế có vị thế rất cao trong thế giới Hy Lạp-Đông La Mã. Nga, là người thừa kế của Đông La Mã, cũng rất tôn thờ Alexander. Nhiều sa hoàng của Nga mang tên Alexander. Là đệ tử của Aristotle, Alexander không chỉ xây dựng một đế chế trải dài từ Hy Lạp, Ai Cập, Ba Tư đến Bắc Ấn Độ, mà còn truyền bá nền văn minh Hy Lạp đến các vùng đất này, lan tỏa ánh sáng của lý trí khắp nơi. Vì vậy trong mắt người Nga, một vị quân vương như Alexander, người cầm kiếm trong tay và lan tỏa văn minh là hình mẫu đáng kính.

Nếu người Mông Cổ làm cho Nga trở nên tàn bạo, khoa học và tư tưởng phương Tây làm cho nước Nga trở nên hiện đại, và di sản của Đông La Mã mang lại cho Nga cảm giác sứ mệnh, thì sông Volga đã mang lại cho Nga sự lãng mạn và chất văn nghệ.

Pushkin và Tolstoy – mặt trời của thơ ca và đại thụ của văn học Nga

Nước Nga trong thời cận đại có rất nhiều nhà văn xuất chúng, bao gồm: Lev Tolstoy, tác giả của Chiến tranh và Hòa bình; Alexander Pushkin, tác giả của Cô con gái viên đại úy; Nikolai Gogol, tác giả của Linh hồn chết; Anton Chekhov, Fyodor Dostoevsky với Tội ác và Hình phạt; và Ivan Turgenev, tác giả của Cha và con. Các tiểu thuyết của Nga không chỉ chứa đựng sức mạnh tư tưởng mà còn phản ánh sự phê phán sâu sắc đối với thực tại. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, khi nhiều người Nga rời quê hương để đến thành phố, môi trường xa lạ và lối sống mới khiến họ mâu thuẫn với bản sắc của mình, nhiều thanh niên chìm đắm trong sự mơ hồ và khủng hoảng. Vì vậy, văn học Nga thúc đẩy một nền văn hóa cứu rỗi, cho rằng dù cuộc sống đầy đau khổ, con người không nên nản lòng mà phải trải qua sự rèn luyện để tự thanh tẩy và đạt được sự cứu rỗi.

Vở ballet "Hồ Thiên Nga" của Nga

Vở ballet “Hồ Thiên Nga” của Nga

Nước Nga cũng có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực nghệ thuật, chẳng hạn như những tác phẩm kinh điển của Pyotr Tchaikovsky như Hồ Thiên Nga, Khúc hát thuyền, Romeo và Juliet, và Kẹp hạt dẻ. Ngay cả trong thời kỳ Liên Xô, những bài hát nổi tiếng như Chiều ngoại ô Moscow, Cây táo gai, và Tam xa mã cũng nổi tiếng trên toàn thế giới. Dù Mỹ có nền âm nhạc đại chúng phát triển, Liên Xô lại giống như người thừa kế của âm nhạc cổ điển.

Do ít bị ô nhiễm trong lịch sử, sông Volga có cảnh quan cực kỳ đẹp, với nhiều kỳ quan tự nhiên nằm dọc bờ sông. Nhiều danh lam thắng cảnh của Nga nằm dọc theo dòng sông này. Nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật Nga lấy cảm hứng từ sông Volga, ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Hầu hết các nhà văn và nghệ sĩ Nga hoặc lớn lên bên bờ sông Volga hoặc chọn nơi đây để định cư. Ngoài ra, tình yêu thiên nhiên của người Nga cũng đã góp phần vào những thành tựu khoa học nổi bật, chẳng hạn như Mendeleev, người phát minh ra bảng tuần hoàn các nguyên tố, và Pavlov với lý thuyết phản xạ có điều kiện. Trong thời kỳ Liên Xô, người Nga đã vận dụng tài năng văn nghệ vào lĩnh vực toán học và vật lý, trở thành quốc gia đầu tiên phóng vệ tinh nhân tạo và đưa con người vào không gian. Cho đến ngày nay, Nga vẫn là một trong ba trung tâm toán học hàng đầu thế giới, ngang hàng với Mỹ và Pháp.

Trong trận Stalingrad thời Thế chiến II, khẩu hiệu truyền cảm hứng mạnh mẽ nhất cho người Nga không phải là “Vì chủ nghĩa cộng sản” hay “Vì tổ quốc”, mà là câu “Phía sau lưng chúng ta là sông Volga!”. Nhiều người Nga coi dòng sông Volga như mẹ của mình, và họ không bao giờ cho phép “mẹ” của mình bị quân Đức Quốc xã làm ô uế. Dưới ảnh hưởng của khẩu hiệu này, nhiều người Nga chiến đấu quyết liệt với Đức Quốc xã, không ngần ngại hy sinh để bảo vệ dòng sông. Trong suốt trận Stalingrad, với cái giá của hàng trăm nghìn sinh mạng, người Nga đã chặn đứng quân Đức ở phía tây sông Volga.

Câu nói này không phải là trò đùa, mà phản ánh một niềm tin sâu sắc trong dân tộc Nga rằng họ là dân tộc được Chúa chọn, là người thừa kế của Đế chế La Mã và là những người cứu thế của nhân loại. Chính vì vậy, đừng bao giờ đánh giá thấp khả năng Nga có thể sử dụng các biện pháp cực đoan. Trong quá khứ, để đánh bại Napoleon, Nga đã không ngần ngại đốt cháy thủ đô Moscow. Nếu Nga bị dồn vào đường cùng, họ thực sự có khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Các chính trị gia phương Tây, những người kêu gọi cứng rắn hơn với Nga, có thể đã đánh giá rất thấp nguy cơ này.

Đánh giá này ban đầu không sai, nhưng sau trận hải chiến Sinope, khi Nga phá hủy phần lớn hạm đội của Thổ Nhĩ Kỳ, gây ra hơn 3.000 thương vong, Anh và Pháp bắt đầu lo ngại. Nếu Nga tiếp tục tiến triển, với đà này họ có thể chiếm được eo biển Thổ Nhĩ Kỳ và kiểm soát toàn bộ Biển Đen, điều này đe dọa trực tiếp đến lợi ích cốt lõi của Anh và Pháp. Do đó, Anh và Pháp đã tận dụng lợi thế truyền thông, mô tả Nga như một kẻ đồ tể tàn sát dân thường để kích động dư luận trong nước, từ đó tạo lý do để tuyên chiến với Nga.

Sở dĩ Nga dám thách thức Anh, Pháp là vì nước này có hai đồng minh là Áo và Phổ

Sở dĩ Nga dám thách thức Anh, Pháp là vì nước này có hai đồng minh là Áo và Phổ

Trước chiến tranh Nga có hai đồng minh thân cận là Áo và Phổ. Ba quốc gia này đã hợp thành Liên minh Thần thánh (Holy Alliance) để bảo vệ chế độ quân chủ chuyên chế ở châu Âu. Tuy nhiên, khi Anh và Pháp tuyên chiến với Nga, cả hai đồng minh của Nga đều giữ thái độ trung lập. Áo lo ngại rằng nếu Nga chiếm được vùng Balkan, điều này sẽ đe dọa đến lợi ích của mình. Phổ thì thực sự không hài lòng với chính sách hỗ trợ Áo lâu dài của Nga, trong khi Phổ và Áo có sự cạnh tranh rõ ràng. Kết quả là chiến tranh trở thành cuộc đối đầu giữa Nga và Anh-Pháp.

Tuy nhiên, Anh và Pháp lại có ưu thế về công nghệ. Nga sử dụng xe ngựa để vận chuyển vật tư và quân đội, trong khi Anh và Pháp sử dụng đường sắt, với hiệu suất cao hơn hàng chục lần. Súng hỏa mai của Nga có tầm bắn 137 mét, trong khi súng trường nòng xoắn của Anh và Pháp có tầm bắn 457 mét, và còn có độ chính xác cao hơn. Các tàu chiến buồm của Nga chẳng khác gì đồ chơi bằng gỗ khi đối đầu với các tàu chiến bọc thép chạy bằng hơi nước của Anh và Pháp. Ngay cả kỵ binh đưa tin của Nga cũng không thể sánh được với tốc độ của điện báo dây dẫn của Anh và Pháp.

Ngay từ thời kỳ chiến tranh Napoléon, tư tưởng về tự do và nhân quyền từ cuộc cách mạng Pháp đã lan truyền vào Nga, ươm mầm cho những cuộc cách mạng trong tương lai. Tuy nhiên, trong thời gian Nikolai I trị vì, ông tin tưởng tuyệt đối vào chính trị cường quyền, thực hiện các chính sách áp bức trong nước và cứng rắn đối ngoại. Ông kiên quyết đàn áp các phong trào cải cách trong nước. Nga thậm chí còn giữ lại hệ thống nông nô lạc hậu, khiến Cách mạng công nghiệp khó có thể phát triển tại đây, vì đất đai và lao động cần thiết cho việc thành lập nhà máy đều nằm trong tay địa chủ. Trong cuộc chiến tranh Crimea, nước Nga nông nghiệp đã bị các nước công nghiệp Anh và Pháp đánh bại thảm hại, không chỉ về mặt quân sự mà còn về cả thể chế.

Sau khi Aleksandr II lên ngôi, ông tuyên bố giải phóng nông nô, cho phép họ được tự do hoàn toàn về mặt nhân thân và không còn bị địa chủ ràng buộc nữa. Tuy nhiên, để cân bằng lợi ích của địa chủ, chính sách quy định nông nô phải mua đất nông nghiệp từ địa chủ thông qua việc chuộc lại. Cải cách này ban đầu được thử nghiệm ở các khu vực ven biển có tư tưởng cấp tiến, sau đó mới lan rộng vào vùng nội địa.

Không chỉ vậy, Aleksandr II còn tiến hành cải cách tư pháp, thiết lập hệ thống bồi thẩm đoàn, trao quyền bình đẳng cho các dân tộc thiểu số và phụ nữ. Hệ thống kiểm duyệt của Nga cũng dần được nới lỏng, không còn hạn chế các sáng tác văn học dân gian, cho phép dư luận phê bình chính phủ, đồng thời đề cao sự quản lý của các giáo sư đại học trong nhiệm kỳ của ông, văn học nghệ thuật Nga phát triển rực rỡ chưa từng thấy và trở thành một cường quốc văn hóa châu Âu. Về mặt ngoại giao, ông thúc đẩy quan hệ với Phổ, khôi phục lại Liên minh Ba Hoàng đế giữa Phổ, Áo và Nga, giúp Nga thoát khỏi sự kiềm chế sau thất bại trong cuộc chiến Crimea và tái thiết hạm đội Biển Đen. Tuy nhiên, việc ông ngồi yên trước quá trình thống nhất nước Đức lại trở thành một thất bại ngoại giao đối với ông.

Nhưng những nhà cải cách trong lịch sử thường đắc tội với người khác, và hành động của Alexander II cũng xúc phạm toàn bộ tầng lớp quý tộc Nga. Trước khi cải cách, những quý tộc này có thể dựa vào đất đai và nông nô để ngồi không hưởng lợi, không ngừng vơ vét tài sản từ tầng lớp dưới đáy mà không quan tâm đến tương lai của quốc gia. Sau cải cách, nhiều quý tộc buộc phải tự lực cánh sinh, sống nhờ vào sức lao động của bản thân. Họ khó có thể chấp nhận việc những người từng là nô lệ vượt lên làm giàu nhờ kinh doanh và giàu có hơn họ. Một số quý tộc xưa cũng tỏ ra phẫn nộ vì cuộc sống đồng quê thơ mộng một thời đã chuyển thành cuộc sống thành thị trong thời đại công nghiệp.

Một trong những tổ chức cấp tiến được gọi là “Đảng Dư luận Nhân dân” bao gồm các thành viên chủ yếu là những người bất mãn với xã hội hiện thực. Họ tin tưởng vào thuyết anh hùng và cho rằng dân thường chỉ là “đám đông vô tri”, còn lịch sử chỉ có thể được thúc đẩy bởi một số ít những người anh hùng. Đảng cực đoan này bắt đầu thực hiện hàng loạt vụ ám sát, và giới quý tộc Nga cũng tích cực đóng vai trò nội ứng, tiết lộ lộ trình của sa hoàng. Thậm chí, trong đội cận vệ của sa hoàng cũng xuất hiện nhiều kẻ phản bội. Cuối cùng, sau hơn 100 lần ám sát, Aleksandr II đã bị sát hại.

Sau khi Aleksandr II bị ám sát, phần lớn nông dân Nga đều quỳ xuống cầu nguyện cho ông và vô cùng căm ghét những kẻ khủng bố, bởi Sa hoàng mới là người thực sự có thể bảo vệ lợi ích của họ. Tại lễ tang của ông, vòng hoa do phái đoàn đại diện nông dân dâng lên được đặt trên ngực ông. Vị Sa hoàng này, người khi còn sống đã luôn đặt nông dân ở vị trí quan trọng nhất trong lòng, đã nhận được sự kính trọng từ phần lớn nông dân Nga.

Sau khi Sa hoàng kế nhiệm Aleksandr III lên nắm quyền, chính trị Nga bắt đầu chuyển sang xu hướng bảo thủ. Vào thời điểm này, tầng lớp tinh hoa Nga cho rằng làn sóng tự do hóa xã hội cần được kiềm chế, và sự ổn định xã hội phải được đặt lên trên cải cách thể chế. Do đó, Sa hoàng đã ban hành sắc lệnh tăng cường các hình phạt đối với các cuộc đình công và biểu tình. Vì các trường đại học là nguồn gốc của chủ nghĩa tự do, Aleksandr III đã bãi bỏ quyền tự trị của các trường đại học. Hệ thống kiểm duyệt báo chí trở nên nghiêm ngặt trở lại, nhiều nhân vật đối lập bị bắt giữ và việc cải cách chế độ quân chủ lập hiến của Nga cũng không còn được đề cập đến.

Trong thời kỳ Alexander III, công nghiệp hóa ở Nga tiến bộ nhanh chóng nhưng những mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt

Trong thời kỳ Alexander III, công nghiệp hóa ở Nga tiến bộ nhanh chóng nhưng những mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt

Mặc dù chính trị Nga có xu hướng bảo thủ, nhưng các bước cải cách kinh tế của Nga vẫn không bị đình trệ. Vào cuối thế kỷ 19, Nga bước vào giai đoạn công nghiệp hóa nhanh chóng. Chiều dài đường sắt tiếp tục gia tăng, hàng loạt nhà máy hiện đại được xây dựng, và sản lượng công nghiệp của Nga dần thu hẹp khoảng cách so với phương Tây. Các ngành công nghiệp hiện đại như than đá, thép, hóa chất và điện lực đạt được những bước tiến đáng kể. Toàn bộ nước Nga đã biến thành một công xưởng lớn, với rất nhiều nông dân rời nông thôn lên thành phố để tìm kiếm cơ hội việc làm. Nga cũng hoàn toàn hòa nhập vào hệ thống thương mại toàn cầu, trở thành nhà xuất khẩu nông sản và khoáng sản lớn nhất châu Âu.

Trước đây Nga chủ yếu có hai tầng lớp: quý tộc và nông nô.

Trong nửa đầu thế kỷ 19, sự đồng thuận xã hội của Nga dựa trên văn hóa truyền thống Nga, nhờ vào sức mạnh đoàn kết xã hội từ cuộc chiến chống lại Napoleon, đa số người Nga đều mang trong mình một giấc mơ vươn lên thành cường quốc. Ngay cả một người nông dân bình thường cũng có thể thuộc lòng những bài thơ của Pushkin, và đây là giai đoạn mà Nga đoàn kết hơn bao giờ hết.

Tuy nhiên đến cuối thế kỷ 19, sự đồng thuận xã hội dần biến mất.Mặc dù nền kinh tế Nga vẫn đang phát triển với tốc độ cao, nhưng phần lớn chiếc bánh tăng trưởng của cải đã được chia cho một số ít người và hầu hết mọi người không cảm thấy rằng họ là người chiến thắng trong tăng trưởng kinh tế. Do tỷ lệ sinh cao, nhiều thanh niên không tìm được việc làm và họ cho rằng chỉ có phá bỏ trật tự cũ mới có thể thay đổi số phận của mình.

– Tầng lớp quý tộc cũ: tầng lớp quý tộc từng là người ổn định xã hội Nga và là người ủng hộ lớn nhất cho trật tự cũ. Tầng lớp quý tộc chiếm 5% dân số, từng cai trị nông nô chiếm 90% dân số . Mặc dù tầng lớp quý tộc cản trở quá trình hiện đại hóa nước Nga, nhưng không thể phủ nhận rằng tầng lớp quý tộc có bầu không khí yêu nước mạnh mẽ hơn trong cuộc chiến chống lại Napoléon, rất nhiều quý tộc đã đứng lên và hy sinh trên chiến trường. Tuy nhiên, sau khi Nga hoàn thành công cuộc cải cách chế độ nông nô, tình trạng kinh tế của tầng lớp quý tộc tụt dốc, nhiều người trong số họ chỉ có thể sống trong cảnh nghèo đói, lòng yêu nước và đạo đức truyền thống cũng bị mai một. Mặc dù địa vị giàu có của giới quý tộc dần dần bị giai cấp tư sản vượt qua, nhưng hầu hết các sĩ quan trong quân đội Nga đều được phục vụ bởi các quý tộc, sa hoàng vẫn phải dựa vào giới quý tộc để điều khiển quân đội nên giới quý tộc có địa vị chính trị cao.

– Tầng lớp trung lưu: Làn sóng công nghiệp hóa và đô thị hóa ở Nga đã biến một lượng lớn người dân trở thành tầng lớp trung lưu. Các tầng lơp trung lưu này bao gồm các doanh nhân nhỏ và những người có thu nhập trung bình và việc làm ổn định. Nhiều công dân Nga đã được tiếp nhận nền giáo dục hiện đại và có những mục tiêu nhất định về chất lượng cuộc sống, nhưng họ luôn trong trạng thái lo lắng. Xem ra đã tích lũy được một lượng của cải nhất định, nhưng số của cải này có thể bị giới quý tộc tước đoạt và bị tư bản thôn tính bất cứ lúc nào. Trong con mắt của nhà văn Gorky, tầng lớp này là những người theo chủ nghĩa vị kỷ, dễ dàng bị tổn thương và dễ sụp đổ.

– Nông dân: Nông dân Nga chiếm phần lớn tổng dân số trong xã hội. Trình độ văn hóa và giáo dục của họ nhìn chung thấp và là đối tượng bị bóc lột nặng nề nhất. Nhưng nông dân là những người ủng hộ trật tự cũ, bởi vì nông dân thường tin vào Cơ đốc giáo Chính thống. Theo truyền thống Chính thống giáo Nga, Sa hoàng là đại diện của Chúa trên trần gian, và quốc ca Nga là “God Bless the Tsar”. Vì vậy, hầu hết nông dân Nga đều ủng hộ sa hoàng và có phần phản kháng cách mạng dân chủ.

Trước tình cảnh khó khăn của Nga, Sa hoàng Nikolai II đã chọn cách tăng cường chế độ quân chủ chuyên chế, cố gắng duy trì sự ổn định xã hội bằng cách áp dụng các biện pháp đàn áp mạnh mẽ, dần dần cắt giảm quyền tự trị địa phương.

Một vấn đề khác của Nga thời điểm đó là ý thức độc lập dân tộc của Ukraine bắt đầu thức tỉnh, ngôn ngữ và văn học Ukraine dần trở nên phổ biến trong tầng lớp thượng lưu tại địa phương, tạo ra một mối đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định của Nga. Bởi Nga từ trước đến giờ vẫn coi người Đông Slav, bao gồm người Nga và người Ukraine, là dân tộc chủ thể, chiếm hai phần ba dân số cả nước. Nếu dân tộc Ukraine và dân tộc Nga tách biệt, dân tộc Nga sẽ chiếm chưa đến một nửa tổng dân số, từ đó các mâu thuẫn sắc tộc và tôn giáo của Nga sẽ lộ rõ, bao gồm cả các khu vực như Ba Lan, Phần Lan và vùng ven biển Baltic sẽ tìm cách độc lập.

Trước tình hình phức tạp trong nước, nhằm xoa dịu xung đột xã hội, Nicholas II theo chủ nghĩa dân tộc và chuyển trọng tâm sang Đông Á, tìm cách xâm chiếm Đông Bắc Trung Quốc. Sự bành trướng của Nga cuối cùng đã vấp phải sự phản đối của các cường quốc khác. Để chống lại Nga, Anh đã chọn hỗ trợ Nhật Bản ở Viễn Đông.

Năm 1904, Chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ

Năm 1904, Chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ

Trước cuộc chiến tranh Nga-Nhật, nội bộ Nga chia thành hai phe: phe ôn hòa và phe chủ chiến.

– Ngược lại, phe chủ chiến với thành phần chủ yếu là tầng lớp quý tộc, lại coi thường Nhật Bản, cho rằng đây chỉ là một quốc gia nhỏ bé. Họ tin rằng, mở chiến tranh với Nhật Bản có thể tạo ra sự đồng thuận xã hội, và thông qua một chiến thắng vẻ vang có thể ngăn chặn cách mạng, đồng thời chuyển hướng các mâu thuẫn nội bộ.

Nhưng cuối cùng, Nga đã thua trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật. Cảng Lüshun bị công phá, hạm đội Thái Bình Dương của Nga bị tiêu diệt hoàn toàn, biến Nga trở thành quốc gia da trắng đầu tiên trong lịch sử cận đại bị một quốc gia da vàng đánh bại. Vị thế quốc tế của Nga từ đó tụt dốc không phanh.

Nhìn bề ngoài, Nga đang chiến đấu với Nhật Bản trong Chiến tranh Nga-Nhật. Trên thực tế, đứng sau Nhật Bản là Anh, Mỹ và thậm chí là toàn bộ phương Tây

Nhìn bề ngoài, Nga đang chiến đấu với Nhật Bản trong Chiến tranh Nga-Nhật. Trên thực tế, đứng sau Nhật Bản là Anh, Mỹ và thậm chí là toàn bộ phương Tây

Trên thực tế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của Nga trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật:

– Hỗ trợ từ Anh và Mỹ: Nhật Bản nhận được sự hỗ trợ từ Anh và Mỹ, trong khi đồng minh của Nga là Pháp, mặc dù trên bề mặt ủng hộ Nga, nhưng thực chất không muốn Nga bị cuốn vào các vấn đề châu Âu, vì vậy không cung cấp sự giúp đỡ thiết thực.

– Quan liêu trong chính phủ và quân đội: Chính phủ và quân đội Nga bị quan liêu hóa cao độ, tình trạng thân quen, chỉ huy hỗn loạn, và khả năng thu thập thông tin kém hơn nhiều so với Nhật Bản.

Thất bại của Nga đã gây ra cuộc khủng hoảng chính trị trong nước, dẫn đến hàng loạt cuộc đình công của công nhân. Hơn 200.000 người đã tập trung tại Cung điện Mùa đông để yêu cầu Sa hoàng cải thiện đãi ngộ cho công nhân, hạn chế lao động quá sức và thúc đẩy cải cách chính trị. Tuy nhiên, điều họ nhận được cuối cùng là sự đàn áp của quân đội và cảnh sát, khiến hàng nghìn người thiệt mạng. Đáng chú ý là, lực lượng vệ binh Sa hoàng chủ yếu được hình thành từ quý tộc, và đây là trụ cột của chế độ Sa hoàng. Những quân nhân này được trang bị và đãi ngộ tốt nhất, chủ yếu là kỵ binh, điều này giúp họ có thể nhanh chóng đến hiện trường.

Vì vậy, quá trình thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Nga diễn ra vô cùng chậm chạp. Mặc dù có việc thành lập Duma Quốc gia (quốc hội), nhưng do những yêu cầu khác nhau từ các tầng lớp trong xã hội, quốc hội trở thành nơi tranh cãi. Nó không đưa ra được những gợi ý hiệu quả cho việc quản lý đất nước, mà thường xuyên đối lập với chính phủ, chỉ biết phê phán mà không đưa ra được giải pháp. Điều này khiến chính phủ Nga rất thất vọng. Cuối cùng, Sa hoàng đã giải tán quốc hội và tìm kiếm một con đường cải cách mới.

Là người theo chủ nghĩa ôn hòa, Thủ tướng Nga Vitte cố gắng làm hòa với nhau nhưng cuối cùng hai bên đều không hài lòng

Là người theo chủ nghĩa ôn hòa, Thủ tướng Nga Vitte cố gắng làm hòa với nhau nhưng cuối cùng hai bên đều không hài lòng

Thực tế, ở Nga thời đó, do thiếu sự đồng thuận trong xã hội nên khó có thể thúc đẩy những cải cách tiến bộ. Thủ tướng Nga Vitte là người theo chủ nghĩa ôn hòa và chủ trương cải cách dần dần các công việc của chính phủ, nhưng ông đã bị nhiều phe phái chỉ trích. Sa hoàng tố cáo ông là người cộng hòa, trong khi các nhà cách mạng cấp tiến cho rằng ông đặt lợi ích của tầng lớp quyền quý lên trên lợi ích của nhân dân, còn các nhà bảo thủ lại cho rằng ông vì muốn làm hài lòng nhân dân mà đã khiến các địa chủ phá sản. Một nhà cải cách trung lập cuối cùng lại rơi vào tình thế khó xử, không được lòng cả hai bên.

Nhà cải cách cuối cùng của Nga – Stolypin

Nhà cải cách cuối cùng của Nga - Stolypin

Nhà cải cách cuối cùng của Nga – Stolypin

Sau khi giải tán quốc hội, Sa hoàng đã chỉ định Stolypin để dẫn dắt các cải cách. Stolypin là một người bảo thủ trong chính trị, ông đã sử dụng các biện pháp mạnh mẽ để đàn áp phong trào của công nhân và nông dân, tàn sát những người cách mạng, và giải tán quốc hội, rất trung thành với Sa hoàng.

Không giống như hầu hết các nhà cải cách, những cải cách của Stolypin không phức tạp. Chỉ có một điểm cốt lõi là tư nhân hóa đất đai. Bởi vì phần lớn dân số Nga là nông dân, hầu hết nông dân đều bị ràng buộc bởi các xã nông thôn và phần lớn thành quả lao động của họ phải được giao nộp. Do đó, thiếu nhiệt tình lao động và nghèo đói cũng khiến nông dân mất đi trách nhiệm xã hội.

Cải cách của Stolypin đã đạt được hiệu quả to lớn. Trong 5 năm nắm quyền, sản lượng ngũ cốc của Nga đã tăng 30%, trở thành nước xuất khẩu ngũ cốc lớn nhất châu Âu. Sản lượng ngũ cốc bình quân đầu người đạt mức cao lịch sử, vượt cả thời kỳ Stalin. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm về giá trị sản lượng công nghiệp đạt 5%, đứng đầu thế giới. Thu nhập quốc dân tăng 78,8%. Sức mạnh quốc gia của Nga đã tăng lên đáng kể, và tầng lớp nông dân giàu có ngày càng lớn mạnh.

Vì vậy, ông kiên quyết phản đối chiến tranh với Đức và Áo, khẳng định rằng phần lớn tài chính nên được dùng để phát triển kinh tế thay vì mở rộng quân sự. Tuy nhiên, điều này cũng gây ra nỗi sợ hãi cho Đức, quân đội Đức cho rằng: “Một khi Nga nhờ vào cải cách của Stolypin đạt được hiện đại hóa, sẽ trở thành một siêu cường, lúc đó toàn bộ Tây Âu cộng lại cũng không thể đánh bại Nga.” Chính vì vậy, Đức đã tìm cách khơi dậy một cuộc chiến tranh thế giới, nhằm ngăn chặn quá trình hiện đại hóa của Nga.

Giống như nhà cải cách Alexander II, trong 5 năm cầm quyền, Stolypin đã phải đối mặt với hàng chục vụ ám sát, gia đình ông cũng bị ảnh hưởng. Đến năm 1911, khi mất đi sự ủng hộ từ Sa hoàng, Stolypin cuối cùng bị một nhà cách mạng cánh tả đầy hận thù với xã hội bắn chết. Mặc dù một nửa xã hội Nga được hưởng lợi từ cải cách của ông, nhưng nửa còn lại lại không hài lòng với những cải cách đó.

Sau cái chết của Stolypin, mâu thuẫn trong nội bộ Nga ngày càng trở nên gay gắt. Lợi ích giữa các tầng lớp quý tộc, tư bản, trung lưu, công nhân và nông dân không thể hòa giải, dẫn đến việc Nga cuối cùng phải bước vào cuộc chiến tranh. Năm 1914, Chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ, Nga huy động hàng triệu quân đội để chiến đấu với Đức và Áo-Hung. Mặc dù quân đội Nga có số lượng lớn, nhưng tinh thần lại rất kém; nhiều lính là nông dân bị bắt đi lính, chỉ khoảng 10% trong số họ biết chữ, và phần lớn không hiểu bản đồ cũng như các chỉ thị tác chiến. Thậm chí, quân đội Nga còn sử dụng mã hiệu đơn giản để giao tiếp. Ngoài ra, do người Nga chỉ chiếm 43% dân số của Nga, các dân tộc thiểu số khác trong nước đều bất mãn với chế độ của Sa hoàng, thường xuyên nổi dậy ở hậu phương.

Chiến tranh đã trở thành một “bộ lọc,” loại bỏ những quân nhân trung thành với Sa hoàng, trong khi những người còn lại phần lớn đều có xu hướng chống đối chế độ. Ở giai đoạn sau, khi ngay cả Vệ binh Sa hoàng cũng bị lôi ra chiến trường và bị tiêu hao với số lượng lớn, trật tự cũ của Nga không còn cỗ máy bạo lực để duy trì.

Khi nhận ra bộ mặt thật của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản ở Nga đã nổi giận và quyết định đứng lên chống lại, dẫn đến cuộc Cách mạng Tháng Mười bùng nổ, mở ra một chương mới trong lịch sử nhân loại với sự ra đời của quốc gia xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.

– Xã hội kiểu “quả ô liu” với tầng lớp trung lưu làm chủ yếu dễ duy trì sự ổn định. Khoảng cách giàu nghèo quá mức sẽ khiến bất kỳ chính sách nào cũng có nguy cơ làm mất lòng một nửa dân số.

Tốc độ cải cách không thể trì trệ, nếu không vấn đề sẽ ngày càng khó giải quyết. Không chỉ cần xem xét trước nhu cầu hiện tại của các giai cấp mà còn phải xem xét trước cơ cấu xã hội trong tương lai.