Gái mại dâm và kỹ nữ trong không gian đạo đức Khổng giáo thời Minh mạt (1550-1644)
Tài liệu: Zurndorfer HT. Prostitutes and Courtesans in the Confucian Moral Universe of Late Ming China (1550–1644). International Review of Social History. 2011;56(S19):197-216. doi:10.1017/S0020859011000411
Tiêu đề: Gái mại dâm và kỹ nữ trong không gian đạo đức Khổng giáo thời Minh mạt (1550-1644)
Khái lược (TL;DR):
Nghiên cứu này tìm hiểu về cuộc sống và địa vị xã hội của gái mại dâm và kỹ nữ trong xã hội Nho giáo cuối thời nhà Minh (1550-1644). Nghiên cứu đặt ra ba mục tiêu chính:
(2) phân tích địa vị của họ trong xã hội Trung Quốc;
Theo pháp luật đương thời, nhai xướng và kỹ nữ đều được xếp vào loại tiện dân và bị xã hội ruồng bỏ. Tuy vậy, ngoài điểm chung là chào bán tình dục, kỹ nữ có giao tiếp với tầng lớp thượng lưu của xã hội, và ở một giai đoạn nhất định thời Minh mạt, địa vị của họ cũng ngang hàng với địa vị của những phụ nữ thượng lưu và quý tộc. Hơn thế, kỹ nữ còn trở thành một hình tượng tiêu biểu trong văn chương và kịch nói. Sự thay đổi trong cách nhìn nhận của xã hội với kỹ nữ nói riêng và tầng lớp dưới đáy xã hội nói chung cho thấy ảnh hưởng của tư tưởng Vương Dương Minh, vốn đã rất thịnh hành thời Minh trung-mạt kỳ.
Sau khi nhà Minh sụp đổ và nhà Thanh lên nắm quyền, hình tượng của kỹ nữ đã thay đổi từ thanh tao và hoài niệm sang thô tục và đáng thương. Sự hồi sinh của chủ nghĩa cổ điển dưới thời nhà Thanh (dẫn đến sự tái khẳng định tầm quan trọng-chính thống của học sĩ-trí thức nam giới), sự kiểm duyệt gắt gao với sách vở và trong in ấn – xuất bản, sự nghiêm khắc trong pháp chế đối với nghệ thuật (rằng nghệ thuật nào mới là đáng xem, người biểu diễn như nào mới là đáng quý,…), và sự suy đồi trong kinh tế dẫn đến sự tích lũy của cải của dân chúng như cuối thời nhà Minh là không thể nữa – tất cả những điều này đã khiến cho văn hóa kỹ nữ suy đồi và biến mất.
Kết hôn: Trong khi luật pháp thời Minh không cấm thường dân nam giới kết hôn với kỹ nữ hay nhai xướng, thì học sĩ-quan lại bị cấm chỉ, nhưng luật đó cũng không thể cản họ cưới kỹ nữ và nhai xướng làm thê thiếp. Hơn nữa, theo pháp luật, đàn ông chỉ có thể cưới một vợ, nhưng việc đàn ông giàu có lấy thêm vài người làm thê thiếp để tăng thanh thế của mình cũng chẳng phải là hiếm. Người đàn ông nào chưa có hậu duệ ở tuổi 40 sẽ được khuyến khích lấy thêm một cô vợ bé.
Và ở đây, chúng ta thấy một sự mơ hồ trong đạo đức: Theo góc nhìn Nho giáo, việc các gia đình hạ lưu buôn bán con gái nhà mình là một điều đáng khinh bỉ; nhưng xã hội lại cho rằng việc một cô gái bị bán đi làm hầu gái hay nhai xướng cho gánh hát để cứu gia đình khỏi cảnh nghèo đói lại là một điều đáng khen ngợi. Chính cô gái này có thể coi rằng đây là môi trường tốt hơn để phát triển vẻ đẹp, tài năng và thành tựu của mình – những giá trị mang tính vật chất. Hơn nữa, chính các gia đình thượng lưu lại là đối tượng mua lấy những cô gái này làm thê thiếp hay làm hầu.
• Dưới thời Chính Đức (1506-1521) ở Nam Kinh, một gia đình bình thường có 5 thành viên đã có thể ăn đủ rau và thịt với khoản tiền 20-30 văn tiền mỗi ngày (giá thịt lợn là 8 văn/cân). Tuy vậy, khoảng 100 năm sau, khi mà giá thực phẩm tăng đến chóng mặt (giá thịt lợn thành 40 văn/cân), cuộc sống của dân chúng càng trở nên khó khăn; và lợi nhuận 100-200 nén bạc cho một phụ nữ đủ để cho cuộc sống của các thành viên còn lại đỡ bị bí bách.
Tiểu kết: Cùng với những điểm sáng trong văn hóa và kinh tế, nhà nước Minh mạt cũng không tránh khỏi sự chia rẽ sâu đậm về mặt kinh tế-xã hội giữa các tầng lớp giàu-nghèo, thương nhân-nông dân, quan chức-dân thường; và các chuyển biến trong xã hội này đã được quan sát và ghi chép bởi rất nhiều trí thức và quan lại-học sĩ (một tác phẩm mà người viết rất thích là Confusions of Pleasure bởi Timothy Brook). Và cho dù tùy góc nhìn thì các thay đổi này có thể là tích cực hay tiêu cực, ta có thể chắc chắn một điều rằng những thay đổi xã hội và kinh tế đã tạo điều kiện cho các cách suy nghĩ hoặc tiếp cận mới về đạo đức của xã hội Minh, cũng như khả năng của các cá nhân trong việc tiếp cận và hấp thụ các lý tưởng Nho giáo.