Có được nhận tiền bồi thường khi dự án đã kết thúc?
Có được nhận tiền bồi thường khi dự án đã kết thúc?
(Xây dựng) – Theo quyết định từ ngày 1/12/2016 của UBND thị xã về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ để giải phóng mặt bằng thực hiện công trình giao thông thì nguồn vốn thực hiện chi trả bồi thường là ngân sách Trung ương thuộc dự án đường nội thị thị xã, dự án đã kết thúc từ năm 2021, nguồn vốn còn tồn tại thời điểm kết thúc dự án đã bị hủy bỏ.
Có được nhận tiền bồi thường khi dự án đã kết thúc? |
Trong quá trình phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ thì có 1 hộ gia đình (chồng Võ Minh C. và vợ Nguyễn Thị M.) đang tranh chấp đất nên chưa thể bồi thường, hỗ trợ theo quy định.
Đến ngày 26/9/2023, bà M. được giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án, phán quyết cuối cùng là đất thuộc quyền sử dụng của bà M và bà có đơn xin được nhận tiền bồi thường, hỗ trợ mà trước đây dự án thực hiện đất còn đang tranh chấp nên chưa nhận.
Ông Bùi Hữu Tuấn (Gia Lai) hỏi, vậy bà M. có được nhận tiền bồi thường, hỗ trợ không?
Trường hợp bà M. được nhận tiền bồi thường, hỗ trợ thì thực hiện theo quy định nào? Có phải thực hiện điều chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ đã được quyết định tại quyết định đã ban hành ngày 1/12/2016 không? Nguồn kinh phí do ngân sách cấp nào bảo đảm?
Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời vấn đề này như sau:
Khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 quy định điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng:
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp”.
Tại Khoản 3 Điều 23 Luật Đất đai năm 2013 quy định về trách nhiệm quản lý Nhà nước về đất đai:
“3. UBND các cấp có trách nhiệm quản lý Nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này”.
Đối với nội dung hướng dẫn về vốn thực hiện dự án đề nghị liên hệ với Bộ Tài chính.
Đề nghị ông liên hệ với cơ quan Tài nguyên và Môi trường tại địa phương để được hướng dẫn cụ thể.
Bạn đang đọc Tin tức xây dựng trên website hungday.com