Cuộc đàm phán để đời của CHIẾN THẦN ngoại giao LÊ ĐỨC THỌ – Người đàn ông sắc sảo ĐÈ BẸP ngay cả CỐ VẤN HOA KỲ

Tháng chín 24, 2024

Intro

Lê Đức Thọ – một người đàn ông được người dân Việt Nam truyền miệng rằng “sinh ra để làm chính trị và ngoại giao”, một người mà chưa từng qua bất kỳ trường lớp đào tạo nào nhưng lại hạ gục đối thủ đàm phán lừng lẫy thế giới, người được mệnh danh là “cây đại vĩ cầm địa-chính trị” của Hoa Kỳ là Henry Kissinger – Cố vấn An ninh Quốc gia lúc bấy giờ. Lê Đức Thọ – người Việt Nam đầu tiên được đề cử để trao giải Nobel Hòa bình danh giá nhưng lại thẳng thừng từ chối nhận giải thưởng này.
Có thể nói Lê Đức Thọ là một trong những nhà ngoại giao xuất sắc và tài ba nhất trong lịch sử Việt Nam. Sự kiên định, mưu trí, và bản lĩnh của ông trên đấu trường ngoại giao đã góp phần quan trọng trong việc mang lại hòa bình cho dân tộc.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng đi sâu tìm hiểu về cuộc đàm phán ngoại giao để đời của ông, đem lại một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam. 

1. Lê Đức Thọ – “Cố vấn đặc biệt” của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris

Lê Đức Thọ, tên khai sinh là Phan Đình Khải với biệt danh thân thương hơn là ông “Sáu”. Ông sinh ra và lớn lên tại Nam Định vào năm 1911 và đã sớm tham gia hoạt động cách  mạng ngay từ khi còn rất trẻ. Chính vì tinh thần yêu nước, phản đối quân địch rất mạnh mẽ nên không lâu sau đó, ông đã bị giam cầm, tra tấn dã man trong các nhà tù “địa ngục trần gian” của bọn thực dân Pháp. Những năm tháng bị hành hạ trong các nhà tù không làm lung lay ý chí sắt đá của ông. Ngược lại, ông đã trở thành một ngọn cờ cảm hứng cho các đồng chí trong tù, được tín nhiệm bầu vào Ban thường vụ Chi uỷ Nhà tù và Bí thư chi bộ.

Chính những năm tháng khổ sai đã tôi luyện cho Lê Đức Thọ ý chí sắt đá và bản lĩnh phi thường. Có lẽ vì thế mà người ta thường ví ông giống như một “cái búa” – mạnh mẽ, kiên định và không bao giờ chịu khuất phục. Với những phẩm chất ấy, ông đã trở thành một nhà lãnh đạo kiên cường, một nhà ngoại giao tài ba.
Cuộc đàm phán Paris là minh chứng rõ nét nhất cho bản lĩnh phi thường và tài năng ngoại giao của Lê Đức Thọ. Chính ông đã đóng vai trò quyết định then chốt trong việc đưa đất nước thoát khỏi cuộc chiến tranh và tiến tới hoà bình. 

2. Bối cảnh Lịch Sử Trước Cuộc Đàm Phán Bí Mật Giữa Lê Đức Thọ và Henry Kissinger

Để hiểu tại sao lại diễn ra cuộc đàm phán bí mật giữa cụ Lê Đức Thọ và Henry Kissinger, chúng ta cần phải nhìn lại bối cảnh lịch sử phức tạp khi ấy.
Vào năm 1954, Hiệp định Geneve được ký kết nhằm chấm dứt Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất giữa Liên hiệp Pháp và Việt Minh. Theo hiệp định, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền tại vĩ tuyến 17, với miền Bắc do Việt Minh kiểm soát và miền Nam dưới quyền của Việt Nam Cộng Hòa. 
Đầu thập niên 1960, Mỹ bắt đầu tăng cường quân số và đưa vũ khí hiện đại vào Việt Nam nhằm ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa Cộng sản, chính thức can thiệp vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam từ năm 1965. Quân đội Mỹ cùng với quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã mở rộng quy mô cuộc chiến thành chiến tranh cục bộ, thực hiện chiến lược “tìm diệt” và “bình định” và tiến hành nhiều chiến dịch lớn nhằm đánh bại lực lượng Cách mạng miền Nam. 
Khi ấy, Đảng ta nhận định rằng đã đến lúc phải phát động một cuộc tổng tiến công và nổi dậy quy mô lớn để đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến. Và như ta đã biết, cuộc nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã  đã làm tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, nhận được sự ủng hộ của nhiều nước trên thế giới, đồng thời khiến các vị lãnh đạo Nhà Trắng và Lầu Năm Góc phải điên đầu đối phó. Mặc dù cuộc Tổng tiến công đã làm tổn thất nặng nề cho quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, khiến địch bị lung lay ý chí chiến đấu nhưng Việt Nam ta vẫn chưa giành được độc lập thống nhất như mục tiêu ban đầu. 
Cuộc nổi dậy Tết Mậu Thân đã làm thay đổi quan điểm của người Mỹ về cuộc chiến, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa” – tức giao phần lớn nhiệm vụ chiến đấu cho quân đội Việt Nam Cộng hòa. Trước sự leo thang của cuộc chiến và sức ép từ dư luận quốc tế, Mỹ đã phải đồng ý tham gia Hội nghị Hòa bình tại Paris, tìm kiếm giải pháp hòa bình thông qua đàm phán trực tiếp.
Lễ khai mạc cuộc nói chuyện chính thức giữa đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện chính phủ Mỹ tại Paris, ngày 13/5/1968. Ảnh: TTXVN

Lễ khai mạc cuộc nói chuyện chính thức giữa đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện chính phủ Mỹ tại Paris, ngày 13/5/1968. Ảnh: TTXVN
Khi chọn người làm “Cố vấn đặc biệt” để đàm phán với Đoàn đàm phán Chính phủ Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị nhận thức sâu sắc rằng: Đàm phán với các chính khách chuyên nghiệp, lọc lõi và cơ mưu của Hoa Kỳ – siêu cường hùng mạnh, có ưu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự so với Việt Nam là việc vô cùng khó khăn và phức tạp. Đây là cuộc đấu trí, đấu lý hết sức cam go ở một trung tâm của phương Tây, xa Trung ương, nên lãnh đạo đàm phán trực tiếp không chỉ cần tinh thần Cách mạng tiến công và ý thức kỷ luật mà còn phải có tư duy chiến lược, bản lĩnh vững vàng và phương pháp sáng tạo, khôn khéo. Lê Đức Thọ là người thích hợp nhất khi đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn, vì ở Lê Đức Thọ có sự hội tụ đầy đủ các yêu cầu của một nhà ngoại giao đàm phán quốc tế về mọi vấn đề liên quan tới chiến tranh và hòa bình của Việt Nam thời điểm bấy giờ.
Lê Đức Thọ: Nhà lãnh đạo tài năng của Đảng, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Lê Đức Thọ: Nhà lãnh đạo tài năng của Đảng, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong lá thư viết tay gửi đến Lê Đức Thọ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi rõ: “….Anh Sáu (Lê Đức Thọ) nên về ngay để tham gia phái đoàn ta đi gặp đại biểu Mỹ”. Đây cũng chính là thời điểm bắt đầu một cuộc đàm phán đấu trí có một – không – hai trong lịch sử ngoại giao Việt Nam.”
Nhưng Mỹ vốn nổi tiếng là một đất nước hay lật lọng và tráo trở. Chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” được Mỹ tuyên bố là một bước đi hướng tới hòa bình, nhưng thực chất chỉ là cách họ rút quân mà không cần nhượng bộ chính trị nào đáng kể. Chính điều này dẫn đến quá trình đàm phán kéo dài và thêm phần phức tạp về sau. 

3. Đàm phán công khai giai đoạn 1968 – 1972 – Bế tắc và căng thẳng 

Đúng như dự kiến, tuy các cuộc đàm phán Paris đã được thực hiện công khai ngay sau đó nhưng lại liên tục rơi vào bế tắc bởi những yêu sách bất hợp lý của Mỹ. Mỹ một mặt ngồi trên ghế kêu gọi hòa bình, nhưng song song lại tiến hành ném bom, đưa quân đội phá hủy cơ sở hạ tầng thành phố Hà Nội. 
Năm 1971, trong bối cảnh cuộc chiến tranh Việt Nam đang leo thang và cuộc đàm phán Paris rơi vào bế tắc, Henry Kissinger đã đưa ra 7 điểm yêu sách nhằm thúc đẩy quá trình đàm phán và đạt được mục tiêu của Hoa Kỳ. Trích đoạn trong cuốn “Các cuộc thương lượng giữa Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris”  tường thuật lại buổi đàm phán giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ như sau: 
Henry Kissinger: “Tôi đến đây nhằm đạt được một bước tiến trong cuộc đàm phán này. Tổng thống Nixon cử tôi đến đây để cố gắng phá vỡ sự bế tắc hiện nay. Đó sẽ là đề nghị cuối cùng của chúng tôi.” [1]  Rồi ông ta đưa ra một chương trình bảy điểm, tóm tắt như sau:
1. Ngừng bắn tại chỗ: Mục tiêu là tạo điều kiện cho việc rút quân và tổ chức tổng tuyển cử. Tuy nhiên, Việt Nam cho rằng điều kiện này không thực tế vì Mỹ thường xuyên vi phạm lệnh ngừng bắn.
2. Rút quân dần dần: Mỹ muốn có thời gian để chuẩn bị và bảo vệ đồng minh, đồng thời giảm thiểu tổn thất cho quân đội Mỹ.
3. Tổ chức tổng tuyển cử tự do: Đây là một trong những điểm mấu chốt gây tranh cãi. Mỹ muốn thông qua tổng tuyển cử để đảm bảo ảnh hưởng của mình ở miền Nam Việt Nam.
4. Giải phóng tù binh chiến tranh: Đây là một yêu cầu nhân đạo, nhưng Mỹ cũng muốn sử dụng vấn đề này để gây áp lực lên Việt Nam.
5. Tôn trọng Hiệp định Genève: Mỹ muốn khôi phục lại tình hình trước khi chiến tranh nổ ra, đồng thời hạn chế sự ảnh hưởng của các lực lượng bên ngoài ở Đông Dương.
6. Không đưa thêm lực lượng ngoại nhập: Mục tiêu là ngăn chặn sự can thiệp của các cường quốc khác vào khu vực.
7. Giám sát quốc tế: Mỹ muốn có sự giám sát quốc tế để đảm bảo các bên thực hiện đúng các điều khoản đã thỏa thuận. 

Kết thúc bản trình bày, Kissinger không quên đe doạ rằng: “Tất nhiên tuỳ phía Việt Nam xem xét. Nếu chiến đấu thêm với những người không còn là mối đe doạ lâu dài của Việt Nam nữa thì các ông chỉ đạt thêm một số thắng lợi phụ nhưng phải xem những thắng lợi đó có bõ với những đau thương và thiệt hại thêm hay không…” [2]
Có thể thấy, các đề xuất của Henry Kissinger chủ yếu tập trung vào việc bảo vệ lợi ích của Mỹ và chính quyền Sài Gòn thay vì quyền lợi của nhân dân Việt Nam nói chung. Việc yêu cầu tổ chức tổng tuyển cử dưới sự giám sát của Mỹ là một sự xâm phạm vào quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam. Rõ ràng, đây là những yêu cầu đi ngược lại với mục tiêu của Cố vấn Lê Đức Thọ là thống nhất đất nước, độc lập, và tự chủ. Mỹ cho thấy rằng họ vẫn muốn tiếp tục duy trì ảnh hưởng ở Việt Nam dưới bất kỳ hình thức nào.
Sau lần Henry Kissinger trình bày về bảy điểm đề xuất cho Việt Nam, Lê Đức Thọ tiếp lời như sau: 
“Tính đến nay, ông Bộ trưởng Xuân Thuỷ và tôi đã gặp ông bảy lần, chúng tôi đã nhìn lại các cuộc gặp đó để rút ra những kết luận và để xem gặp ông có thể giải quyết được gì. Lần gặp thứ nhất, tháng 8 năm 1969 thì đến tháng 9 các ông mở cuộc tấn công Cánh Đồng Chum ở Lào.  Lần thứ hai, chúng tôi gặp ông tháng 2 năm 1970 để đàm phán. Lần thứ ba, Bộ trưởng Xuân Thuỷ gặp ông tháng 9 năm 1970 thì đến tháng 11 các ông dùng không quân đánh ra miền Bắc, một cuộc tấn công lớn nhất kể từ khi Mỹ chính thức chấm dứt ném bom miền Bắc. Các ông đã dùng trực thăng đổ biệt kích xuống gần Hà Nội. 
Thành ra mỗi lần chúng tôi gặp các ông để giải quyết vấn đề thì sau đó các ông đều tiến hành các cuộc tấn công quân sự, dùng sức mạnh quân sự ép chúng tôi trong đàm phán.” 
Thẳng thắn, Lê Đức Thọ nói: “Không biết sau lần gặp này các ông định làm gì nữa đây. Các ông có thật sự giải quyết hay còn giở nhiều thủ đoạn nữa. Đó là điều chúng tôi rất băn khoăn nghi ngờ vì qua các đề nghị của ông chúng tôi thấy các ông chưa thật sự muốn giải quyết. Các ông đặt cách giải quyết vấn đề chưa đúng. [3]
Kết luận, Lê Đức Thọ bày tỏ rõ ràng lập trường: 
“Miền Nam Việt Nam không thể trở thành thuộc địa kiểu thực dân mới, nhưng cũng không phải xã hội chủ nghĩa mà phải thật sự độc lập và trung lập, phải có một Chính phủ hoà hợp dân tộc gồm có các bên. Phải có một Chính quyền thật sự độc lập, dân chủ, trung lập, mong muốn hoà bình đế nói chuyện thật sự với Chính phủ Cách mạng Lâm thời, giải quyết hoà bình vấn đề Nam Việt Nam” [4]

Qua cuộc đàm phán tiêu biểu trên, có thể thấy rõ sự đối lập trong mục tiêu đàm phán của cả hai bên. Phía Mỹ, bề ngoài thể hiện sự mềm dẻo, luôn mong muốn hòa bình nhưng thực chất là chỉ muốn bảo toàn ảnh hưởng của mình ở Việt Nam, duy trì chế độ Sài Gòn bù nhìn để xâm lược bằng cách khác. Tráo trở hơn cả, khi không đạt được mục đích, Mỹ sẽ sử dụng vũ lực bằng cách thả bom mìn, phá hủy căn cứ điểm quan trọng của Hà Nội để phía ta phải biết run sợ mà nhún nhường.

Ngược lại, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tức miền Bắc ta lại thể hiện sự kiên định với mục tiêu bảo vệ chủ quyền và độc lập dân tộc, đòi hỏi Mỹ chấm dứt mọi hoạt động quân sự tại Việt Nam. Phía ta nhất quyết không thỏa hiệp, không chùn bước, sẵn sàng kéo dài đàm phán cho đến khi đạt được mục tiêu hòa bình thực sự, đảm bảo độc lập và thống nhất cho dân tộc.
Rõ ràng không chỉ đối lập về mục tiêu, phong cách đàm phán của Henry Kissinger và Lê Đức Thọ cũng có những điểm trái ngược hoàn toàn, khắc họa rõ nét chân dung của cả hai. 

Henry Kissinger là một nhà ngoại giao lão luyện nổi tiếng về sự thực dụng và linh hoạt của mình. Ông luôn sẵn sàng thay đổi lập trường để đạt được mục tiêu chính trị,  sử dụng những thuật ngữ mơ hồ và các điều khoản chung chung để tung hỏa mù đối phương, tạo ra không gian cho những thỏa hiệp sau này. Chính vì thế mà Lê Đức Thọ từng nói “không biết sau lần này các ông định làm gì nữa đây” là vì thế, Henry Kissinger sẽ không bao giờ nói ra ý định thực sự của mình. Ông thường xem xét kỹ lưỡng các động thái của đối phương và điều chỉnh chiến thuật của mình để tối đa hóa lợi thế cho Mỹ.
Và có thể đảm bảo, Henry Kissinger là một người biết cách sử dụng tối đa quyền lực trên bàn đàm phán. Ông biết rõ Mỹ là một siêu cường quốc với những nguồn lực hơn hẳn Việt Nam, sẵn sàng sử dụng vũ lực quân sự và các biện pháp kinh tế nhằm đe dọa và gây sức ép, buộc nước ta phải biết sợ mà nhượng bộ.
Và hãy cùng tôi đoán xem sau những biện pháp đe dọa ấy, Henry Kissinger sẽ làm gì? Ông lại tiếp tục thể hiện mình là người mềm dẻo, mong muốn tìm kiếm một giải pháp chính trị để chấm dứt cuộc chiến tranh trên bàn đàm phán. Và nếu phía bên ta không đồng ý, Kissinger lại tiếp tục tấn công bằng vũ lực. Có thể thấy trong bất kỳ hoàn cảnh đàm phán nào, Kissinger luôn tin rằng Mỹ có quyền định đoạt tương lai của Việt Nam và không thật sự quan tâm đến mong muốn của Việt Nam như cách ông ta thể hiện. 
Nếu để miêu tả 1 câu về nghệ thuật đàm phán của Kissinger trong giai đoạn này, tôi sẽ nói rằng ông đã sử dụng chiến thuật “ăn miếng trả miếng”. Ông đưa ra một số nhượng bộ nhỏ để đổi lấy những nhượng bộ lớn hơn từ phía đối phương, và nó đi kèm với những điều kiện ràng buộc.  Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng sức ép từ chiến dịch Linebacker II của Mỹ đã buộc các nhà lãnh đạo miền Bắc phải tính toán lại về chiến lược đàm phán.

Nếu Henry Kissinger đàm phán với tâm thế dựa vào quyền lực của Mỹ, thì Lê Đức Thọ lại dựa vào sức mạnh của dân tộc. Lê Đức Thọ là một nhà ngoại giao kiên định và cứng rắn, nổi tiếng với sự thẳng thắn đến “xéo sắc” của mình. Ông đặc biệt có tài trong khả năng lãnh đạo và chiến thuật linh hoạt, luôn đặt lợi ích quốc gia và chính nghĩa dân tộc lên hàng đầu trên bàn đàm phán. 
Trước tiên, ông luôn thể hiện sự kiên quyết trong lập trường với thái độ cứng rắn muốn chấm dứt sự can thiệp của Mỹ, bảo vệ quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam trong mỗi buổi đàm phán. Đối diện với sức ép từ Henry Kissinger, ông cũng cho thấy sự bản lĩnh, không lùi bước trước các biện pháp đe dọa hay sức ép quân sự từ phía Mỹ. Sự kiên định của Lê Đức Thọ đã giúp củng cố lòng tin và tinh thần đoàn kết của phía Việt Nam trong quá trình đàm phán.
Mặc dù rất kiên quyết về nguyên tắc là vậy, nhưng Lê Đức Thọ cũng thể hiện sự linh hoạt trong chiến thuật đàm phán. Ông sẵn sàng lắng nghe và điều chỉnh các đề xuất để tạo điều kiện thuận lợi cho một giải pháp hòa bình, nhưng không làm mất đi quyền lợi quốc gia.
Lê Đức Thọ thường sử dụng các chiến thuật đàm phán có tính dài hơi, không vội vàng trước những áp lực ngắn hạn, và luôn có cái nhìn sâu sắc về diễn biến lâu dài của các sự kiện. Ông hiểu rằng thời gian có thể là một yếu tố có lợi cho Việt Nam và không ngần ngại kéo dài đàm phán nếu cần thiết để đạt được những thỏa thuận có lợi nhất. 
Và dù nổi tiếng với phong cách ngoại giao không ngại “va chạm”, Lê Đức Thọ vẫn luôn thể hiện sự tôn trọng đối với Kissinger ngay cả lúc trao đổi căng thẳng nhất, và tất nhiên không bao giờ nhượng bộ trước những yêu cầu bất hợp lý.

4. Đàm phán bí mật giai đoạn 1972 – 1973 – Sự hung hăng của Mỹ dẫn đến những bước ngoặt quan trọng 

4.1. Chiến dịch Linebacker II và sự thay đổi cục diện đàm phán 

Như chúng ta đã biết ở phần trên, những cuộc đàm phán công khai hầu  như đi vào ngõ cụt. Để phá vỡ thế bế tắc và buộc Việt Nam phải chấp nhận nhận những điều khoản của mình, Henry Kissinger đã bàn bạc với Tổng thống Richard Nixon tiến hành cho một chiến dịch quân sự khốc liệt mang tên “Linebacker II”, thường được gọi là “Cuộc tập kích 12 ngày đêm” diễn ra vào tháng 12 năm 1972. Đây là một trong những cuộc ném bom ác liệt nhất trong lịch sử chiến tranh, nhắm vào các mục tiêu dân sự và quân sự ở miền Bắc Việt Nam. 
Phía Hoa Kỳ đã sử dụng tới 129 máy bay B52 đánh Bắc Việt Nam, 128 B52 đánh Hà Nội, dùng thủy lôi phong tỏa cảng Hải Phòng. Tuy nhiên, trái với mong đợi của Mỹ, chiến dịch Linebacker II không đạt được mục đích ban đầu đề ra. Thay vì làm suy yếu tinh thần chiến đấu, nó làm gia tăng sự căm thù quân Mỹ của nhân dân Việt Nam, củng cố mạnh mẽ quyết tâm kháng chiến đánh đuổi giặc thù. Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đã công bố thắng lợi đó như sau: Bắn rơi 81 máy bay trong đó có 34 B52, 5 F111, bắt 43 phi công trong đó có 32 lái B52.

Nhưng rõ ràng, mục tiêu của chiến dịch này không phải tiêu diệt miền Bắc Việt Nam mà khiến phía Lê Đức Thọ sẽ quay lại bàn đàm phán với một thái độ nhượng bộ, nhún nhường hơn. Về phía các lãnh đạo miền Bắc nói chung và Lê Đức Thọ nói riêng, cuộc ném bom này ngày càng củng cố quyết tâm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. 
Nhưng không thể phủ nhận sức ép rất lớn từ chiến dịch Linebacker II của Mỹ, buộc các nhà lãnh đạo miền Bắc phải tính toán lại về chiến lược đàm phán của mình. Đây được coi là bước ngoặt góp phần đẩy nhanh quá trình đàm phán sau một thời gian dài thăm dò không mang lại kết quả gì, góp phần dẫn đến việc ký kết Hiệp định Paris sau này. 

4.2. Cuộc đấu trí chốt hạ vận mệnh lịch sử tại Paris 

Ngày 8 tháng 1 năm 1973, cố vấn Lê Đức Thọ hạ cánh tại Paris để bước vào trận đấu trí căng thẳng nhất trong lịch sử. Nếu Lê Đức Thọ tới buổi đàm phán trong hào quang của trận “Điện Biên Phủ trên không” trên tư thế người chiến thắng thì đoàn Mỹ lại bước vào với tâm thế của một kẻ xâm lược thua cuộc nhưng ngạo mạn. Lấy ý tưởng từ Tam quốc chí, giới báo chí phương Tây đã ví von ngắn gọn về cuộc đối đầu đặc biệt này, rằng: “Trời đã sinh Kissinger sao còn sinh thêm Lê Đức Thọ”.
Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger, trái, và ông Lê Đức Thọ, phải, Cố vấn cao cấp Đoàn đại biểu miền Bắc tại Hội nghị Paris, tại Gif-sur-Yvette, ngoại ô Paris, ngày 23/11/1972, ngay trước các cuộc điều đình bí mật.

Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger, trái, và ông Lê Đức Thọ, phải, Cố vấn cao cấp Đoàn đại biểu miền Bắc tại Hội nghị Paris, tại Gif-sur-Yvette, ngoại ô Paris, ngày 23/11/1972, ngay trước các cuộc điều đình bí mật.
Trên đường đến chỗ họp, đích thân Lê Đức Thọ dặn dò phiên dịch của ông như sau:  “Hôm nay Đoàn ta không ra cửa đón Đoàn Mỹ như thông lệ. Mình sẽ phê phán Mỹ mạnh đấy, sẽ nói Mỹ ném bom đợt Noel là ngu xuẩn, cậu dịch câu ấy cho đúng tinh thần…”. Vào buổi họp, Lê Đức Thọ đã làm thật. Ông nổ ngay phát súng đầu, phê phán mạnh mẽ thái độ lật lọng của Mỹ, lên án cuộc ném bom tàn bạo 12 ngày đêm, dõng dạc nói:
 “Các ông lấy cớ đàm phán gián đoạn để ném bom lại miền Bắc Việt Nam giữa lúc tôi vừa về đến nhà. Việc các ông “đón” tôi khi về đến Hà Nội có thể nói là rất “lịch sự”! Tôi có thể nói rằng hành động của các ông rất trắng trợn và thô bạo. Các ông tưởng rằng làm như vậy là có thể khuất phục được chúng tôi, nhưng các ông nhầm… Chính các ông đã làm cho cuộc đàm phán khó khăn, chính các ông đã làm cho danh dự nước Mỹ bị hoen ố.” [5]

Kissinger chỉ biết cúi đầu nghe, không có phản ứng gì. Mãi sau ông ta mới lắp bắp nói: “Tôi có nghe những tính từ, tôi đề nghị không dùng những từ đó trong buổi đàm phán hôm nay.”
“Tôi dùng những tính từ đó cũng là kiềm chế lắm rồi” – ông Thọ đáp. “Chứ dư luận thế giới, các nhà báo và chính các nhân vật ở Mỹ còn dùng những câu chữ dữ dội hơn nữa kìa!” [6]
Cuộc đàm phán được tiếp tục nhưng Henry Kissinger vẫn rất giữ chiến lược tung hỏa mù, không vào thẳng vấn đề. Cố vấn Lê Đức Thọ mất kiên nhẫn rồi nói:
“Không, bây giờ dứt khoát đi. Chỉ còn hai vấn đề đó để thảo luận thôi, rồi đến các vấn đề cụ thể khác. Nếu ông đồng ý hai vấn đề đó thì chúng tôi thảo luận. Tôi giữ đúng điều trong thông điệp của các ông gửi cho chúng tôi. Lời các ông nói còn đó, biên bản còn đó? Tôi thấy ông là người rất quanh co.” [7]
Cố vấn Lê Đức Thọ tiếp tục nói không tin vào chữ tín của người Mỹ:
“Các ông nói đến hoà bình, nhưng lại gây ra chiến tranh. Chúng tôi thận trọng vì chúng tôi luôn bị lừa. Năm 1945, chúng tôi ký hiệp định với Pháp, nhưng sau đó họ đưa quân đội của họ tới. 9 năm sau, chúng tôi ký hiệp định Geneve, và gần như ngay sau đó nó đã bị xé bỏ. Vì vậy, tôi băn khoăn không biết thiện chí của các ông có thật sự như lời các ông nói không. Tôi đề nghị các ông thẳng thắn với chúng tôi. Trong suốt thập kỷ chiến tranh này, các ông đã tốn biết bao tiền bạc mà không thu được lợi gì. Tôi không hiểu, điều gì khiến các ông tiếp tục cuộc chiến này.” [8]
Trên bàn ngoại giao, ông đã cho nước Mỹ hùng cường thấy tuy mình chỉ là một nhà ngoại giao của một đất nước nhỏ bé, nhưng với tinh thần sắt đá của một người cộng sản kiên trung, tin tưởng vào lý tưởng độc lập, tự do hạnh phúc sẽ không bao giờ khuất phục trước bất kỳ khó khăn nào.  
Qua từng cuộc đàm phán, Lê Đức Thọ đã một lần nữa thể hiện tài năng ngoại giao bản lĩnh, thông minh và tài trí của mình. Ông có khả năng ứng biến nhanh, luôn nắm được thời cơ chủ động để đưa ra những quyết định sáng suốt. 

Khi nhận thấy sự kiên định và quyết tâm không lay chuyển của phía Việt Nam, cộng với áp lực chính trị trong nước và quốc tế đòi hỏi chấm dứt chiến tranh, Henry Kissinger buộc phải nhượng bộ và chấp nhận một số yêu cầu quan trọng của Việt Nam. Điều này dẫn tới Hiệp định Paris được ký kết vào tháng 1 năm 1973 – một dấu son chói lọi trong lịch sử dân tộc như chúng ta đã biết. Trong Hiệp định có các điều khoản quy định Mỹ sẽ ngừng bắn, rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống lại miền Bắc Việt Nam, và tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam. 
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, cả thế giới ca ngợi tài trí ngoại giao của đồng chí Lê Đức Thọ. Hình ảnh của ông tràn ngập trên các trang báo lớn ở Mỹ, giới truyền thông phương Tây miêu tả ông là “A national hero, A tough negotiator, A skilled diplomat”. Thậm chí, Lê Đức Thọ còn được đánh giá là một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn đến lịch sử, không chỉ của Việt Nam mà còn của cả khu vực Đông Dương và thế giới.

Ngay trong năm 1973, Ủy ban Giải thưởng Nobel quyết định trao “Giải Nobel Hòa bình” cho Lê Đức Thọ với những cống hiến không ngừng nghỉ của ông trong việc chấm dứt chiến tranh kéo dài hơn hàng chục năm tại Việt Nam. Ông là người Việt Nam đầu tiên được đề cử trao giải thưởng danh giá này. Nhưng, với bản lĩnh và sự sắc xảo của mình, Lê Đức Thọ đã nói không với giải Nobel Hòa bình – danh hiệu cao quý mà bất kỳ nhà ngoại giao nào cũng mơ ước. 
Cơn chấn động khi ông Lê Đức Thọ từ chối nhận Nobel Hòa bình

Cơn chấn động khi ông Lê Đức Thọ từ chối nhận Nobel Hòa bình
Đằng sau quyết định từ chối giải Nobel của ông đến từ rất nhiều những nhận định sâu sắc và rất….“Lê Đức Thọ”. Để tìm hiểu rõ hơn về lý do tại sao, ta cần phải nhìn vào cốt lõi vấn đề: Mối quan hệ đối lập sâu sắc giữa Lê Đức Thọ và Henry Kissinger. 

5. Mối quan hệ kỳ phùng địch thủ giữa Lê Đức Thọ và Kissinger

Cuộc đối đầu giữa Lê Đức Thọ và Henry Kissinger tại bàn đàm phán Paris không chỉ đơn thuần là một cuộc tranh luận ngoại giao, mà còn là cuộc đối đầu giữa hai đất nước, hai tư tưởng chính trị khác biệt, hai khái niệm rất khác nhau về hai chữ hòa bình. Một bên là đất nước nhỏ bé, non trẻ với lịch sử chiến tranh kéo dài hơn hàng nghìn năm. Một bên là siêu cường quốc với quyền lực hàng đầu thế giới. Một bên là đại diện cho ý chí độc lập dân tộc khao khát hòa bình, một bên là đại diện cho sức mạnh hùng cường muốn xâm lược đất nước để làm thuộc địa cho mình. 

Thú vị hơn cả, một bên là giáo sư Đại học Havard với tên tuổi lẫy lừng được thế giới biết đến, một bên thì giản dị chân phương, không được đào tạo qua bất kỳ trường học danh tiếng nào. Trường hoc duy nhất của ông là trường đời, là kinh nghiệm sống chắt lọc qua những năm tháng Cách mạng gian khổ từ tuổi vị thành niên. 
Sau khi được nhận đề cử Nobel, Lê Đức Thọ đã thẳng thừng từ chối vì lý do đơn giản: “Hòa bình chưa thực sự thiết lập ở miền Nam Việt Nam. Vì thế, tôi không thể nhận giải thưởng này.”
Chỉ một câu giải thích ngắn gọn như vậy, rồi Lê Đức Thọ giữ im lặng, không giải thích thêm về quyết định này cho tới 20 năm sau, khi chính ông tiết lộ lý do chính xác trong bộ phim “From Hollywood to Hanoi”:
“Họ trao giải cho cả người gây chiến tranh lẫn người đem lại hòa bình. Sự lẫn lộn đó khiến bác không thể nhận giải thưởng Nobel với một cái ý nghĩa như vậy được.” [9]

Mãi sau này, ta mới biết được rằng sau khi nhận được đề cử giải thưởng, đích thân Lê Đức Thọ đã viết một bức thư giải thích về quyết định của mình gửi cho bà Aase Lionaes, Chủ tịch Ủy ban Giải thưởng Nobel của Quốc hội Na Uy năm đó. Ông thể hiện quan điểm đanh thép cùng một lập trường nhất quán rằng hiệp định Paris không phải một thỏa hiệp giữa hai bên mà là một chiến thắng trước Hoa Kỳ. Vì vậy, Việt Nam không thể hài lòng khi đứng chung bậc cùng với người đại diện cho phe mà ông đã đánh bại – Henry Kissinger. Ông thắng thắn: “
“Tôi chỉ có thể “xem xét” nhận giải thưởng khi Hiệp định Paris được tôn trọng, chiến tranh ngừng lại và hòa bình thực sự được thiết lập ở miền Nam Việt Nam”  [10]

Trong một lần trả lời phỏng vấn của nữ phóng viên hãng thông tấn Mỹ UPI Synvana Foa ngày 15/3/1985 mà thư ký của ông – Lưu Văn Lợi có ghi chép lại lời của Lê Đức Thọ như sau: 
“Bây giờ tôi nói về giải thưởng Nobel. Chúng tôi biết, giải thưởng Nobel là một giải thưởng lớn với thế giới. Từ xưa đến nay có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhưng tại sao tôi không nhận, ai đã làm cho hòa bình? Mỹ tiến hành xâm lược đất nước tôi 20 năm. Người chống Mỹ và làm cho Mỹ thất bại, giành độc lập đưa hòa bình cho đất nước và cho cả khu vực này là chúng tôi. Người làm hòa bình là chúng tôi chứ không phải Mỹ. Trong thư gửi Ủy ban Giải Nobel, tôi đã phân tích kỹ Mỹ tiến hành chiến tranh như thế nào? Nhưng Ủy ban giải đã đặt ngang bằng kẻ xâm lược và người bị xâm lược, giữa kẻ gây chiến tranh và người tạo hòa bình. Coi chúng tôi cũng như Mỹ. Điều đó là sai lầm và tôi không thể chấp nhận như vậy. Vì vậy tôi đã không nhận giải thưởng Nobel!” [11]
Về phía Mỹ, giải Nobel Hòa bình được Nhà Trắng đón nhận với một tâm thế rất tự hào và có phần khoe khoang. Kissinger rất phấn khởi khi biết tin, tuyên bố đồng ý nhận giải thưởng trị giá 510.000 USD. Thậm chí Tổng thống Nixon còn phát biểu về giải thưởng này là “phần thưởng xứng đáng cho nghệ thuật đàm phán của người Mỹ trong công cuộc chấm dứt chiến tranh và mang lại hòa bình ở Việt Nam”. 
Niềm vui ngắn ngủi ấy nhanh chóng bị dập tắt bởi những phản ứng dữ dội từ dư luận quốc tế.  Báo chí Mỹ và quốc tế đã lên tiếng chỉ trích gay gắt, gọi giải thưởng này là một trò hề. Thậm chí, hai thành viên của Hội đồng Nobel đã từ chức để phản đối quyết định sai lầm và thiếu tính khách quan. Sự phản đối của dư luận đã cho thấy rằng, việc trao giải cho một người được xem là kẻ xâm lược là một sự sỉ nhục đối với những nạn nhân của cuộc chiến tranh Việt Nam
Kissinger sau đó không đến dự buổi trao giải tại Oslo vì lo ngại sẽ trở thành mục tiêu của các nhóm biểu tình phản chiến. Năm 1975, khi chính quyền Sài Gòn thất thủ, ông đề nghị trao trả lại kỷ niệm chương nhưng không được hội đồng Nobel chấp nhận.
Sau đó 30 năm sau, trong bộ phim tài liệu “Chiến tranh Việt Nam – Những cuộc đàm phán bí mật” do Pháp thực hiện, chính Henry Kissinger cũng phải cay đắng thừa nhận rằng: 
“Tôi đã vô cùng kính phục ông Lê Đức Thọ. Ông là đại diện cho một nước tương đối nhỏ nhưng rất cứng rắn khi đàm phán với một siêu cường quốc như Mỹ. Chiến lược của ông là làm lung lay tinh thần của chúng tôi, và không cho chúng tôi hy vọng hoà giải, trừ khi là theo điều khoản của ông. Ông làm việc việc với phong cách lịch sự và nắm chắc vấn đề một cách tuyệt vời. Thật không may cho chúng tôi khi có ông là đối thủ. Ông mang dáng vẻ của một người cộng sản cống hiến hết mình cho lý tưởng, chúng tôi đã phải cố gắng rất nhẫn nại với ông. Tôi có thể làm tốt hơn nếu như đối diện trên bàn đàm phán không phải là ông Lê Đức Thọ, đàm phán với ông Thọ quả là cân não” [12]
Madam Bình -Trưởng phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trên bàn đàm phán khi ấy cũng phải thốt lên rằng:
“Cố vấn Lê Đức Thọ đã đấu tranh một cách dũng cảm và thông minh. Đó là lý do mà chúng tôi nói rằng, kể cả ông Henry Kissinger, một người tự tin và có lẽ hơi một chút tự phụ, vẫn phải cúi đầu khuất phục dưới Lê Đức Thọ.” [13] 

Outro

Cuộc đàm phán Paris đã đi vào lịch sử như một minh chứng hùng hồn cho tài năng ngoại giao xuất chúng của Lê Đức Thọ.  Di sản bất hủ mà ông để lại cho nền ngoại giao Việt Nam vượt xa giới hạn của Hiệp định Paris. Đó chính là một triết lý đàm phán để đời:  Vũ khí ngoại giao không phụ thuộc vào quy mô quốc gia hay sức mạnh kinh tế, mà nó bắt nguồn từ lòng kiên định và ý chí sắt đá hướng tới một lý tưởng cao cả. Và cần phải nhớ rằng dẫu còn nhiều khó khăn và thách thức, niềm tin vững chắc vào sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam sẽ luôn là con đường tất yếu dẫn đến thắng lợi vẻ vang sau này. 

Nguồn tham khảo 

[1] Trang 134 trích trong cuốn “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris” – NXB Công an Nhân dân
[2] Trang 135 trích trong cuốn “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris” – NXB Công an Nhân dân
[3] Trang 140 trích trong cuốn “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris” – NXB Công an Nhân dân
[4] Trang 142 trích trong cuốn “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris” – NXB Công an Nhân dân
[5] Trang 345 – 346 trích trong cuốn “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris” – NXB Công an Nhân dân
[6] & [7] Trang 347 trích trong cuốn “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris” – NXB Công an Nhân dân
[8]
[9]
[10]
[11]
[12] & [13]