Di sản thời thuộc địa của sông Nile gây ảnh hưởng đến hòa bình của châu Phi và còn nhiều hơn thế
Tháng mười một 5, 2024
Mùa hè vừa qua, một diễn biến quan trọng và có phần bất ngờ đã xảy ra, khi quốc hội Nam Sudan phê chuẩn Hiệp định Khung về Hợp tác Lưu vực sông Nile (CFA), hay còn được gọi là Hiệp định Entebbe. Vậy là khoảng 14 năm sau khi một số quốc gia Đông Phi kí thỏa thuận ban đầu, việc phê chuẩn văn bản này chính thức đặt ra câu hỏi về quyền lịch sử của Ai Cập và Sudan đối với nguồn nước sông Nile.
Ngày 13/10/2024, Ethiopia chính thức tuyên bố hiệp định đã có hiệu lực. Thủ tướng Ethiopia Abiy Ahmed đã gọi đây là “dấu mốc lịch sử” trong nỗ lực chung của các quốc gia kí kết nhằm “thúc đẩy sự hợp tác thực sự tại Lưu vực sông Nile.”
Ai là người sở hữu sông Nile?
Sông Nile là con sông dài nhất ở châu Phi (và có thể là trên thế giới, vì có một số tranh cãi về độ dài với sông Amazon). Nó trải dài khoảng 5600 km từ Hồ Victoria – nơi bắt nguồn của sông Nile Trắng, cho đến Địa Trung Hải. Lưu vực sông Nile có diện tích 3.4 triệu km2. Sông Nile Xanh bắt nguồn từ Ethiopia, hợp lưu với sông Nile Trắng ở thủ đô Khartoum của Sudan, trước khi chảy vào Địa Trung Hải qua Ai Cập.
Từ thời xa xưa, nước sông Nile đã được sử dụng để tưới tiêu, và ngày nay, chúng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất điện. Sông Nile đặc biệt quan trọng đối với Ai Cập, khi mà 95% dân số nước này sinh sống dọc theo hai bên bờ sông và ở Đồng bằng sông Nile. Nhà sử học Hy Lạp cổ đại Herodotus từng gọi Ai Cập là “một món quà của sông Nile.” Các thành phố lớn của Ai Cập, bao gồm thủ đô Cairo và Alexandria, đều nằm dọc bên bờ của con sông này.
Trong số các thỏa thuận quan trọng liên quan đến Lưu vực sông Nile, có một văn bản vào năm 1929 được kí kết giữa Ai Cập và Sudan thuộc Anh-Ai Cập (một khu vực chung do Ai Cập và Anh cùng quản lí từ năm 1899-1956). Hiệp ước này đảm bảo cho Ai Cập có được một phần cụ thể về nguồn nước của con sông, và được nhắc đến trong tài liệu là “quyền lịch sử” của Ai Cập. Nó cũng trao cho Cairo thẩm quyền phản đối bất kì công trình xây dựng nào trên các nhánh của sông Nile, nếu Cairo cho rằng các dự án đó đe dọa đến an ninh nguồn nước của mình.
Ai Cập chính thức giành được độc lập sau sự sụp đổ của Đế chế Ottoman vào năm 1922. Sudan giành được độc lập từ Anh và Ai Cập vào năm 1956.
Đối với Ethiopia, quốc gia chưa từng bị thuộc địa hóa, nước này đã liên tục từ chối các thỏa thuận năm 1929 và 1959, với lí do rằng chúng bỏ qua lợi ích của nước này. Về cơ bản, các thỏa thuận này trao cho Ai Cập quyền kiểm soát tuyệt đối đối với nguồn nước sông Nile, và bỏ qua quyền của các quốc gia khác trong Lưu vực sông Nile, cũng như nhu cầu sử dụng tài nguyên nước để phát triển của họ.
Trái với Ethiopia, Ai Cập – với dân số khoảng 110 triệu người, là một trong những quốc gia sản xuất điện hàng đầu châu lục. Trong giai đoạn 2022-2023, tổng công suất phát điện lắp đặt của Ai Cập đã 59000 MW và toàn bộ người dân đều có điện sử dụng. Khoảng 80% sản lượng điện của Ai Cập nhiên liệu hóa thạch (khí đốt), và khoảng 7% từ thủy điện. Ngoài ra, Ai Cập còn xuất khẩu LNG (khí hoá lỏng) sang nhiều nước khác, bao gồm cả châu Âu.
Các quốc gia ở thượng nguồn tuân thủ theo lí thuyết “tờ giấy sạch,” được gọi là “Nguyên tắc Julius Nyerere” – đặt theo tên vị tổng thống đầu tiên của Tanzania (1964-1985). Khi nhậm chức, Nyerere đã viết một lá thư cho cựu tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser, nêu rõ rằng Tanzania sẽ không công nhận các thỏa thuận được kí kết trong thời kì thuộc địa, đặc biệt là các thỏa thuận liên quan đến sông Nile, trong đó có yêu cầu các nước thượng nguồn phải thông báo cho các nước hạ nguồn về bất kì dự án nào họ có ý định thực hiện. Cách tiếp cận này sau đó được Burundi, Uganda và Kenya áp dụng, và được gọi là Nguyên tắc Nyerere.
Các quốc gia thượng nguồn sông Nile đã áp dụng Nguyên tắc Nyerere và từ chối tuân theo các thỏa thuận được thiết lập trong thời thuộc địa. Hiệp định Entebbe bao gồm cụm từ “sử dụng công bằng,” cũng thể hiện ý tưởng của Nyerere. Đáng chú ý, nguyên tắc này phù hợp với Công ước của Liên hợp Quốc năm 1997 về Luật Phi Giao thông thủy Sử dụng các tuyến Đường thủy Quốc tế (1997 UN Convention on the Law of Non-Navigational Uses of International Watercourses), trong đó kêu gọi thiết lập một khuôn khổ pháp lí ràng buộc để xác định việc sử dụng tài nguyên và thiết lập các cơ chế giải quyết tranh chấp.
Tìm kiếm giải pháp
Một sáng kiến như vậy là Khảo sát Khí tượng Thủy văn năm 1967 về Lưu vực Hồ Victoria, Kyoga và Albert (dự án HYDROMET), được Chương trình Phát triển của Liên hợp Quốc (UNDP) và Ai Cập hỗ trợ. Dự án này ra đời nhằm ứng phó với tình trạng mực nước Hồ Victoria dâng cao đáng kể và dẫn đến lũ lụt nghiêm trọng vào đầu những năm 1960. Trong hơn 25 năm, nhiều công sức đáng kể đã được thực hiện để thu thập dữ liệu khí tượng thủy văn và đào tạo một nhóm chuyên gia khu vực có trình độ cao. Ngoài ra, một diễn đàn khu vực đã được thành lập để cho phép các bên tham gia thảo luận các vấn đề kĩ thuật liên quan đến Lưu vực sông Nile. Điều thú vị là, ngay từ đầu, Ethiopia đã không tham gia vào dự án này.
Năm 1999, chín quốc gia: Ai Cập, Sudan, Ethiopia, Uganda, Kenya, Tanzania, Burundi, Rwanda và CHDC Congo – đã chính thức khởi động Sáng kiến Lưu vực sông Nile (NBI), với sự tham gia của Eritrea với vai trò là quan sát viên. Sáng kiến này nhằm mục đích thiết lập quan hệ đối tác giữa các quốc gia dọc theo sông Nile, dựa trên sự hợp tác cùng có lợi, thúc đẩy hòa bình và an ninh khu vực. Ngân hàng Thế giới và các tổ chức quốc tế khác đã hỗ trợ sáng kiến này.
Hiệp định Entebbe
Hiệp định Entebbe yêu cầu văn bản này phải được quốc hội của ít nhất sáu quốc gia phê chuẩn trước khi Ủy ban Lưu vực sông Nile, có trụ sở thường trực tại Uganda, có thể được thành lập. Ủy ban này sẽ giám sát hợp pháp các quyền và trách nhiệm liên quan đến Sáng kiến Lưu vực sông Nile, đồng thời đảm bảo sự hợp tác giữa các quốc gia thành viên về quản lí bền vững và công bằng các nguồn tài nguyên nước, vượt ra ngoài hệ thống hạn ngạch đang áp dụng trước đây.
Để có hiệu lực, thoả thuận này cần được sáu quốc gia phê chuẩn, và Nam Sudan trở thành quốc gia thứ sáu phê chuẩn Hiệp định Entebbe vào ngày 25/07/2024 – tức là 14 năm sau khi hiệp định này được kí kết lần đầu.
Theo nội dung hiệp định, văn bản này sẽ có hiệu lực sau đúng 60 ngày kể từ khi quốc gia thứ sáu phê chuẩn. Ngày 17/10/2024, Uganda dự kiến sẽ đăng cai Hội nghị Thượng đỉnh sông Nile lần thứ II (hội nghị đầu tiên được tổ chức vào năm 2017), nơi các quốc gia thượng nguồn sông Nile sẽ họp để kỉ niệm ngày có hiệu lực của Hiệp định Khung Hợp tác lịch sử và việc thành lập Ủy ban Lưu vực sông Nile. Tuy nhiên, hội nghị này đã bị
Ai Cập đã kiên quyết ủng hộ chính quyền Somalia, những người vô cùng phẫn nộ trước các hành động đơn phương của khu vực li khai này. Tháng 08/2024, Tổng thống Somalia Hassan Sheikh Mohamud đã đến thăm Cairo, nơi Ai Cập và Somalia đã kí một thỏa thuận hợp tác quốc phòng song phương. Sau đó, Ai Cập bắt đầu cung cấp viện trợ quân sự cho Somalia, chứng tỏ nước này đã chuẩn bị cho một cuộc xung đột vũ trang tiềm tàng với Ethiopia, mà trong đó, Somalia có thể được sử dụng để làm nơi uỷ nhiệm.
Cùng lúc đó, như tình hình ở Lưu vực sông Nile đã cho thấy, Ethiopia sẽ không lùi bước. Do đó, trong khi Hiệp định Entebbe nhằm mục đích thiết lập sự bình đẳng giữa các quốc gia và sửa chữa những sai lầm thời thuộc địa, thì nghịch lí thay, nó lại làm tăng khả năng xảy ra một cuộc đối đầu mới ở Đông Phi, nơi mà hai cường quốc khu vực là Ai Cập và Ethiopia – đối đầu với nhau.