[Dịch] Thiên Đỉnh Máu – Cormac McCarthy (Chương 11)
Tháng tám 23, 2024
XI
Tiến vào miền núi – Lão Ephraim – Kẻ Delaware bị bắt – Tìm kiếm – Thị thực di chúc khác – Trong hẻm núi – Ngôi mộ – Keet Seel – Solerette – Hình tượng và vạn vật – Pháp quan kể chuyện – Con la lạc lối – Hố mét-ca – Cảnh đêm cùng ánh trăng, hoa nở, pháp quan – Ngôi làng – Glanton bàn về chăm sóc động vật – Đường khởi hành.
Họ tiến vào miền núi và con đường họ đi dẫn qua những rừng thông cao ngất, gió lùa qua tán cây, tiếng chim não nề. Bầy la không móng len lách qua cỏ héo và lá thông. Ở những khe nước màu lam trên triền phía bắc là vết tuyết hẹp có từ lâu. Họ lên đoạn khúc khuỷu dẫn qua một rừng dương cô tịch nơi lá rụng rời ánh lên như đĩa vàng bé nhỏ trên đường mòn đen ẩm ướt. Đám lá thành hàng triệu trang kim xuôi xuống những hành lang nhợt màu và Glanton nhặt một chiếc và xoay phần cuống như chiếc quạt tí hon và cầm nó và thả rơi và sự hoàn mỹ nó toát lên vẫn còn trong tâm hắn. Họ qua một đường rãnh hẹp nơi lá cây được lợp băng lạnh và lúc xế chiều họ vượt đỉnh đèo nơi bồ câu hoang phóng xuôi chiều gió và bay qua khoảng hở vài phít xa nền đất, trở chiều loạn xạ giữa bầy ngựa tơ và thả mình xuống vực lam sâu thẳm nằm bên dưới. Họ vào khu rừng lãnh sam u tối, ngựa tơ nhỏ giống Tây Ban Nha hút lấy bầu không loãng, và vừa chạng vạng lúc con ngựa của Glanton đang bước qua khúc gỗ sập thì con gấu ốm nâu vàng đứng dậy từ bãi trũng đằng xa mà nó kiếm ăn và cúi nhìn họ bằng cặp mắt mờ của heo.
Con ngựa của Glanton lồng lên và Glanton rạp người sát vai ngựa và rút cây súng ngắn. Một kẻ Delaware ngay phía sau hắn và con ngựa y cưỡi sắp ngã kềnh và y cố kìm lại, thụi vào đầu nó, và con gấu chĩa cái mõm dài đung đưa trước mặt họ kèm tiếng rống sững sờ, kinh ngạc vượt ngoài suy đoán, tảng thịt hôi nào đó thõng trên hàm và hai mép dính toàn máu. Glanton bóp cò. Viên đạn găm trúng ngực con gấu và con gấu ngả thân cất tiếng rên kỳ quái và chộp lấy kẻ Delaware và nhấc y rời khỏi ngựa. Glanton bắn thêm một phát vào lớp lông xù trước vai con gấu khi nó xoay thân và kẻ thõng người trên hàm nó thì nhìn xuống họ mặt kề mặt với con thú và một tay quàng cổ nó như kẻ điên phản bội dám thể hiện thân tình. Khắp khu rừng náo loạn tiếng la toáng và tiếng người đập ngựa hét để làm chúng im. Glanton lên cò lần thứ ba khi con gấu day thân với kẻ da đỏ thõng người mắc vào miệng nó như con búp bê và xát qua y bằng đám lông màu mật ong bết máu và mùi xác và mùi hôi của chính nó. Phát đạn càng lên cao, một lõi nhỏ bằng kim loại vút bay tới vành đai vật chất xa vời thầm nghiền nát phía tây. Vài tiếng súng trường vang dội và con dã thú lao phắt vào rừng với con tin và mất dạng sau hàng cây u tối.
Lũ Delaware đuổi theo con thú ba ngày còn nhóm người thì đi tiếp. Ngày đầu chúng lần theo vết máu và chúng thấy nơi con vật từng nằm nghỉ và nơi những vết thương đã lành và ngày kế chúng lần theo vết lê qua lớp đất trên nền rừng cao và ngày kế nữa chúng lần theo vết mờ qua núi đá mặt bàn cao rồi chẳng còn gì khác. Chúng truy vết đến khi tối trời và nằm ngủ trên đá lửa nhẵn và ngày kế chúng thức dậy và trông ra toàn bộ miền hoang vu sỏi đá ở phía bắc. Con gấu đã mang kẻ thân tộc với chúng đi xa như loài dã thú trong truyện cổ tích và miền đất đã nuốt tươi chúng không cách nào cứu chuộc hay ân xá. Chúng lên ngựa và quay về. Không gì lay động ở miền cao hoang dã trừ cơn gió. Chúng không mở lời. Chúng là người của thời đại khác mặc dù mang tên thánh và chúng sống cả đời ở nơi hoang dã như cha ông đời trước. Chúng biết về chiến tranh bằng cách gây chiến, các thế hệ bị đẩy về bờ đông băng qua một lục địa, từ đám tro tàn ở Gnadenhutten tới thảo nguyên và sang sông tới miền nhuốm máu ở phía tây. Nếu nhiều sự trên thế gian là bí ẩn thì giới hạn của thế gian không là thế, do nó vô chừng và vô biên và bên trong là những sinh vật kinh khủng hơn bội phần và người mang màu da khác và hữu thể mà chưa ai trông thấy và không xa lạ hơn con tim xa lạ nơi chúng, bất kể miền hoang dã ở kia và bất kể loài dã thú.
Sáng sớm hôm sau chúng theo dấu vết của nhóm người và đêm hôm sau nữa chúng đã đuổi kịp họ. Con ngựa nguyên yên của chiến binh mất tích thì vẫn đứng theo bầy và chúng đem xuống mớ bao và phân chia đồ đạc và cái tên của y không còn ai nhắc tới. Buổi tối pháp quan lại gần củi lửa và ngồi bên chúng và hỏi chuyện chúng và vẽ bản đồ trên nền đất và nhìn kỹ nó. Đoạn y đứng lên và lấy ủng xoá sạch và sáng trời tất cả đi tiếp như thường lệ.
Đường họ đi nay dẫn qua cây sồi thấp và cây nhựa ruồi và sang miền đất đá nơi đám cây đen bám rễ ở vỉa than trên sườn dốc. Họ đi ngựa qua ánh nắng và cỏ cao và xế chiều họ trèo lên vách đá dường như viền một thế gian quen thuộc. Ở bên dưới cháy âm ỉ trong nắng ngày mờ nhạt là bình nguyên San Agustin trải dài tới đông bắc, mặt đất trôi bềnh theo một đường cong dài thầm lặng dưới làn khói bốc lên từ mỏ than lòng đất cháy hàng ngàn năm qua. Bầy ngựa chậm bước men theo bờ viền và người cưỡi đưa nhiều ánh mắt tới miền đất cổ xưa và trần trụi.
Những ngày tới họ sẽ qua một xứ mà đá tảng sẽ nướng da thịt trên bàn tay và không có gì ngoài đá tảng. Họ đi ngựa thành hàng một trên đường mòn đầy dẫy phân dê tròn hoá khô và họ ngoảnh mặt khỏi tường đá và luồng khí nóng đang phà lại, những hình thù đen xiêu vẹo của người cưỡi in trên lớp đá kèm cái vẻ khổ cực và khôn nguôi như đủ sức xâm phạm vào giao ước giữa họ với da thịt làm nên họ và hằng tự chủ bám theo đá trần mà không can hệ tới thái dương hay con người hay thượng đế.
Họ cưỡi ngựa từ xứ này xuôi qua một hẻm núi sâu, lanh canh qua những hòn đá, những bóng lam dìu dịu. Giữa vùng cát khô của đáy con rạch là xương cốt đã lâu và hình thù bể của đồ gốm sơn và khắc vào lớp đá bên trên chúng là hình ngữ về ngựa và báo và rùa và kỵ binh Tây Ban Nha mang nón sắt và khiên mộc và khinh mạn hòn đá và tĩnh lặng và thời gian. Nằm trong những phay và kẽ hở bên trên xa một trăm phít là những tổ bằng rơm và đồ dạt sau đợt nước lên thuở đó và đoàn kỵ binh có thể nghe thấy râm ran tiếng sấm ở cõi vô danh xa vời và họ ngước xem bầu trời hẹp trên cao để trông chừng bóng tối của cơn mưa sắp đến, luồn qua hai bên sườn hẻm núi, những tảng đá trắng khô nơi đáy sông cạn nước thì tròn nhẵn như trứng thần bí.
Họ cắm trại qua đêm ở tàn tích thuộc nền văn hoá cổ xưa sâu trong núi đá, một thung lũng nhỏ với dòng nước trong và cỏ tốt. Nhà cửa bằng bùn và đá có tường bao quanh nằm dưới vách nhô và nơi thung lũng còn những mương đã cũ. Cát mềm nơi đáy thung lũng thì ngổn ngang mảnh đồ gốm và súc gỗ đen và chi chít dấu chân của nai và loài thú khác.
Pháp quan thả bộ ở tàn tích buổi hoàng hôn, những căn buồng xưa vẫn ám màu đen do khói gỗ, đá lửa cũ và đồ gốm bể giữa tro tàn và lõi bắp nhỏ ráo khô. Vài chiếc thang mục nát vẫn đang dựa tường. Y vừa rong qua những buồng lễ tan hoang dưới ngầm vừa lượm những di vật nhỏ và y ngồi trên tường cao và phác họa vào quyển sách cho tới khi nắng chiều tắt hẳn.
Vầng trăng tròn dâng qua hẻm núi và bầu im lặng phủ vây nơi thung lũng nhỏ. Có lẽ là cái bóng của chính họ đã doạ lang cỏ tránh xa vì nơi đó vắng âm thanh của chúng hay gió hay chim chỉ còn dòng nước êm chảy qua lớp cát trong bóng đen dưới củi lửa.
Pháp quan dành cả ngày thăm dò ít nơi giữa đất đá trong hẻm núi mà họ đã đi qua và nay bên củi lửa y trải tấm vải xe ngựa lên nền đất và đang lựa những món tìm được và sắp lại đằng trước. Y giữ trên đùi quyển sách da thuộc dùng ghi chú và y nhặt từng cái, đá lửa hay mảnh gốm hay dụng cụ hay cốt xương, và phác nhanh gọn vào quyển sách. Y phác hoạ thật dễ dàng nhờ rèn luyện và không có nếp nhăn nơi vầng trán trơ lông hay cái mím nơi cặp môi non trẻ đến dị thường. Ngón tay y mơn vết liễu đan đã cũ trên một mảnh gốm và y đưa cái này vào quyển sách bằng cách đổ bóng đẹp, tiết kiệm đường viết chì. Y là người phác thảo cũng như là người khác, đủ sức làm mọi việc. Thi thoảng y ngẩng đầu nhìn củi lửa hoặc nhìn chiến hữu hoặc nhìn màn đêm xa vời. Sau chót y đặt phía trước mình mảnh chân lấy từ bộ giáp rèn ở cửa tiệm Toledo ba thế kỷ trước, tấm sắt nhỏ bao bàn đạp thì mỏng manh và hoen rỉ. Thứ này được pháp quan phác thảo mặt ngoài và phối cảnh, đề kích cỡ bằng nét chữ nắn nón, thêm chú thích bên lề.
Glanton quan sát y. Làm xong y cầm lên miếng giáp chân và xoay trở trong tay và lại săm soi nó rồi y bóp nó thành trái banh kim loại và quăng vào củi lửa. Y gom những di vật còn lại và cũng ném chúng vào củi lửa và y vũ tấm vải xe ngựa và xếp nó rồi cất vào giữa đống đồ riêng của mình cùng quyển sách. Đoạn y ngồi xuống khum tay trên đùi và y có vẻ hài lòng với thế gian, như thể khi nó thành hình lời khuyên của y đã được chấp thuận.
Gã Tennessee tên Webster vẫn dõi nhìn y và gã hỏi pháp quan tính làm gì với mớ ghi chú và phác thảo và pháp quan mỉm cười và nói rằng y toan xoá chúng ra khỏi ký ức của loài người. Webster mỉm cười và pháp quan cười lớn. Webster nheo một mắt nhìn y đăm đăm và nói: Ừ thì chắc ông từng hay phác thảo ở đâu đó và mớ hình kia rất giống những gì ngoài đời. Nhưng chả ai dồn được cả thế gian vào một quyển sách. Chả có gì vẽ trong quyển sách là như thế.
Nói hay lắm, Marcus, là lời đáp của pháp quan.
Nhưng mà đừng vẽ đây, Webster nói. Đây chả muốn ở trong sách của ông.
Sách của ta hay sách nào đó khác là lời của pháp quan. Những điều sắp diễn ra không sai lệch mảy may so với cuốn sách nơi chúng được ghi lại. Làm sao khác được? Nếu vậy thì đó sẽ là sách giả mà sách giả thì không phải là sách.
Ông đánh đố rất ghê và tôi chẳng thể nào so lời thắng ông. Cứ chừa cái bản mặt đây ra khỏi sách của ông vì đây chả muốn cho người lạ nhìn.
Pháp quan mỉm cười. Có nằm trong sách của ta hay không, thì mỗi người đều nương ngụ ở người khác và ngược lại và mãi như thế trong sự phức tạp vĩnh hằng của hữu thể và chứng nhân ở nơi tận cùng thế gian.
Cứ để đây làm chứng cho chính mình, là lời của Webster, nhưng bấy giờ những người khác quát lên rằng gã là kẻ tự phụ, và ai mà muốn thấy bức chân dung mắc toi đó và có chăng những cuộc ẩu đả sẽ nổ ra giữa đám đông đang chờ nó lộ diện và biết đâu họ sẽ trây nhựa đắp lông vào bức tranh, nếu chính gã không có mặt. Sau đó pháp quan giơ tay và yêu cầu ân xá và bảo họ là cảm xúc của Webster thuộc dạng khác và không phải do tự phụ và rằng có lần y vẽ nên bức chân dung một lão da đỏ Hueco và vô tình trói buộc lão vào chính bức tranh đó. Điều này khiến lão mất ngủ vì sợ kẻ thù lấy cắp và làm xấu nó và vì bức chân dung quá giống mình nên lão không cho phép nó bị nhàu hay thứ gì chạm vào nó và lão mang nó băng qua miền hoang mạc tới nơi lão từng nghe nói sẽ tìm thấy pháp quan và lão xin pháp quan chỉ cách giữ đồ và pháp quan dắt lão vào sâu trong miền núi và họ chôn bức chân dung ở một hang động và nó vẫn còn đó theo những gì pháp quan biết.
Y kể xong câu chuyện còn Webster thì nhổ bọt và lau miệng và lại hướng mắt vào pháp quan. Cái lão đó, gã nói, chả hơn gì tên rợ đã ngu còn nghịch đạo.
Đúng rồi, là lời của pháp quan.
Đây chẳng hề giống như thế.
Tốt lắm, là lời của pháp quan, với tay lấy túi hành lý. Anh không phản đối việc ta vẽ anh một bức chứ nhỉ?
Đây chả thích ngồi mẫu, là lời của Webster. Nhưng chả phải là như ông kể.
Nhóm người im bặt. Ai đó đứng lên nhóm lửa và mặt trăng lên cao và nhỏ dần trên nhà cửa tan hoang và dòng chảy nhỏ thấm qua lớp cát nơi đáy thung lũng ánh lên như lưới kim loại và trừ âm thanh nó gây nên thì không có âm thanh nào khác.
Lũ da đỏ nào từng sống ở đây thế, Pháp quan?
Pháp quan ngước nhìn.
Chắc là lũ chết rồi, ông nghĩ sao, Pháp quan?
Chưa chết hẳn, là lời của pháp quan.
Lũ thợ xây này cũng khá đấy chứ, đây nghĩ thế. Còn giờ thì bầy mọi sống quanh đây không giỏi bằng.
Chưa chết hẳn, pháp quan nói. Rồi y kể cho họ nghe một câu chuyện khác và nó là như sau.
Ở miền đất phía tây dãy núi Allegheny cách đây vài năm khi nơi đó vẫn còn là miền hoang dã có một lão làm chủ tiệm đóng yên cương bên cạnh đường Liên bang. Y làm vậy bởi vì đó là nghề của y nhưng y làm rất ít do ở nơi đó không nhiều lữ khách qua lại. Thế là chẳng bao lâu y dần có thói quen ăn vận thành da đỏ và chọn một nơi cách xa tiệm vài dặm và đợi bên vệ đường để xin tiền bất cứ ai đi tới. Thời điểm này y chưa làm hại ai cả.
Ngày nọ một người đàn ông ghé qua và thợ yên cương mang chuỗi hạt và lông chim nấp sau cây liền bước ra và xin người này ít xu lẻ. Người này còn trẻ và chàng ta từ chối và nhận thấy thợ yên cương là dân da trắng nên đã mở lời bằng cái cách khiến y hổ thẹn do đó y mời chàng ta tới nơi mình ở cách xa vài dặm đường.
Lão thợ yên cương sống trong ngôi nhà bằng vỏ cây tự mình xây cất và y có một vợ và hai con và đám người đó tin rằng y bị điên và chỉ chờ thời cơ thoát khỏi y và miền hoang dã mà y mang họ tới. Thế là họ đón chào người khách và người vợ dọn bữa tối cho chàng ta. Nhưng trong lúc chàng ta dùng bữa thì y lại xin tiền và kể lể rằng họ nghèo xơ nghèo xác và người du hành lắng tai nghe rồi lấy ra hai đồng xu mà y chưa từng thấy và y chìa tay nhận và săm soi chúng và cho thằng con thấy và chàng lạ mặt ăn xong và nói y cứ giữ hai đồng xu đó.
Thế nhưng sự vô ơn lại thường gặp hơn các anh nghĩ và lão thợ yên cương chưa thoả dạ và hỏi chàng ta có cho vợ y đồng xu nào giống như vậy hay không. Chàng ta đẩy trả dĩa và cựa người trên ghế và giảng cho y nghe và trong bài giảng này y nghe thấy những điều từng biết nhưng đã quên và y cũng nghe thấy những điều mới. Chàng ta kết thúc bằng việc nói y là tổn thất trong mắt Chúa lẫn người và vẫn sẽ như vậy trừ khi y yêu mến anh em mình như yêu mến bản thân và y gặp được người mình muốn ở nơi hoang mạc nào đó trên thế gian.
Thời điểm chàng ta sắp dứt lời thì đi trên đường là tên mọi đen kéo xe tang cho một kẻ đồng loại và cỗ xe sơn hồng và tên mọi vận quần áo đủ màu như tên hề hội giả trang và chàng ta chỉ tay vào tên mọi trên đường và nói rằng ngay cả mọi đen…
Đến đây pháp quan tạm ngừng. Y đang hướng mắt vào củi lửa và y ngẩng đầu nhìn xung quanh. Lối kể chuyện của y rất giống tường thuật. Y vẫn chưa đánh mất mạch chuyện. Y mỉm cười với những kẻ lắng nghe.
Nói rằng ngay cả mọi đen điên khùng cũng không thấp kém hơn một người giữa bao người. Thế là thằng con y bật dậy và tự mình diễn thuyết, chỉ tay ra đường và nhờ dọn một chỗ dành riêng cho tên mọi. Nó dùng những lời như thế. Một chỗ dành riêng. Tất nhiên lúc bấy giờ tên mọi và cỗ xe tang đã rời xa tầm mắt.
Trước những lời này y lại tỏ ra hối hận và thề rằng con mình nói đúng và người vợ già ngồi bên củi lửa thì kinh ngạc trước những điều mình nghe thấy và khi người khách bảo rằng đã tới lúc phải đi thì mắt bà ta ngấn lệ và đứa gái sau giường liền lao tới và bám vào quần áo của chàng ta.
Y xin dẫn chàng ta ra đường để từ biệt và để hướng dẫn chàng là ngã nào nên rẽ và ngã nào không do ở phần thế gian đó thì gần như không có gì chỉ lối.
Khi bước ra ngoài họ nói về cuộc sống ở miền hoang dã mà dù có gặp được ai thì chỉ gặp một lần và không bao giờ gặp lại và một thoáng sau họ tới ngã rẽ trên đường và chàng lữ khách nói y đi như vậy là được rồi và chàng ta cảm ơn và hai người từ biệt nhau và chàng lạ mặt đi tiếp. Nhưng y có vẻ không cam được việc mất đi bạn đồng hành nên đã gọi chàng ta và theo chàng thêm một đoạn. Và trong thoáng chốc họ tới một nơi mà con đường trở tối ở rừng sâu và ở đây y giết chàng lữ khách. Y giết chàng ta bằng tảng đá và cướp áo quần và cướp đồng hồ và tiền bạc và chôn chàng ở huyệt nông bên vệ đường. Sau đó y về nhà.
Trên đường đi y xé quần áo đang vận và đánh mình chảy máu bằng đá lửa và y kể cho người vợ rằng họ bị lũ cướp tấn công và chàng lữ khách bị sát hại và chỉ mình y chạy thoát. Người vợ bật khóc và một lúc sau bà ta nhờ y dẫn mình tới đó và bà ta hái bông anh thảo dại um tùm xung quanh và đặt lên lớp đá và nhiều lần viếng thăm cho tới khi về già.
Thợ yên cương sống tới khi thằng con trưởng thành và không bao giờ làm hại ai nữa. Lúc lâm chung y nằm gọi thằng con tới bên mình và kể nó nghe những việc y đã làm. Và thằng con nói nó tha lỗi cho y nếu đó là việc nên làm và y bảo đó là việc nên làm rồi nhắm mắt xuôi tay.
Thế nhưng thằng con không lấy làm buồn bởi vì nó ganh tị với người đã khuất và trước khi bỏ nhà nó tới nơi kia và ném quăng đá và đào xương và rải chúng trong rừng rồi đi biệt. Nó đi về phía tây và trở thành kẻ chuyên giết người.
Lúc đó người vợ già còn sống và không biết chuyện gì đã xảy ra và bà ta tưởng thú hoang đã đào xương và rải chúng. Có lẽ bà ta không tìm thấy hết xương nhưng cũng đủ để xây lại mộ và bà ta đắp đất và chất đá lên trên và đem bông tới như thường lệ. Khi tuổi đã cao bà ta kể cho người đời rằng đứa con trai mình được chôn ở kia và có lẽ vào thời điểm đó thì đúng là như vậy.
Đến đây pháp quan ngẩng đầu và cười mỉm. Có một bầu im lặng, rồi tất cả đồng thanh toáng lên với đủ kiểu từ chối.
Lão đâu phải là thợ yên cương lão là thợ giày và được xoá tội rồi, là lời của một người.
Và người khác: Lão đâu có sống ở miền hoang dã, lão có cửa tiệm ở chính giữa Cumberland Maryland.
Đám kia đâu có biết đống xương đó là từ đâu. Cái bà đó bị điên, ai cũng biết thế.
Cái thằng cha trong quan tài là anh đây và gã là vũ công hát dạo từng ở Cincinnati Ohio bị bắn chết chỉ vì con đàn bà.
Và có những lời phản đối cho tới khi pháp quan giơ tay đòi im lặng. Cứ bình tĩnh, y cất lời. Bởi vì câu chuyện còn một người nữa. Có một nàng dâu ngóng chờ chàng lữ khách bỏ mạng mà chúng ta đã biết và cô ấy mang trong bụng người con trai của chàng. Sự tồn tại của người cha trên thế gian này mang tính lịch sử lẫn suy đoán nên người con ngay cả khi chưa chào đời đã lâm vào cảnh bất hạnh. Nó muôn đời đứng trước một thần tượng hoàn hảo không cách nào đạt được. Người cha chết đã lừa mất di nghiệp khỏi người con. Vì cái chết của người cha là cái mà người con được hưởng và thừa kế, nhiều hơn gia sản để lại. Nó sẽ mãi không nghe những điều nhỏ nhặt trong đời đã tôi luyện nên chàng. Nó sẽ mãi không thấy chàng dằn vặt bởi sự điên rồ của bản thân. Không. Cái thế gian nó nhận được đem cho nó chứng nhân giả. Nó khổ đau trước vị thần bất động và nó sẽ mãi không tìm ra lối.
Điều nào đúng với một người, pháp quan nói, thì đúng với đa số. Những người từng sống ở đây được gọi là người Anasazi. Người xưa. Họ xa lìa nơi đây, bị diệt trừ bởi tai hạn hoặc bệnh tật hoặc bởi đám lãng du chuyên cướp phá, xa lìa nơi đây từ rất lâu và nay không được ai nhớ tới. Họ là dao ngôn lẫn hư ảnh trên miền đất này và khiến người người kính sợ. Dụng cụ, kỹ nghệ, công trình – những thứ này đứng ra phán xét chủng tộc đời sau. Nhưng lại không có cái gì để mà tranh đấu. Người xưa biến mất như bóng ma và bọn rợ lang thang ở thung lũng này giữa tiếng cười cổ đại. Ở túp lều thô sơ chúng thu mình trong bóng tối và lắng nghe nỗi sợ rỉ ra từ lớp đá. Mọi tiến triển từ bậc cao hơn tới thấp hơn đều được lưu dấu bằng phế tích và bí ẩn và tàn dư cơn thịnh nộ không tên. Thực vậy. Đây là cha ông đã lìa đời. Linh hồn họ bị chôn vùi trong đá. Nó ở trên miền đất này thì mang cùng sức nặng và ở khắp nơi. Vì những ai xây nơi trú ẩn bằng sậy và da thì đã nhập linh hồn mình vào vận mệnh chung của muôn loài và sẽ chìm xuống bãi bùn nguyên thuỷ không một tiếng kêu. Còn những ai xây bằng đá thì tìm cách đổi thay kết cấu của vũ trụ và những thợ xây này cũng như vậy bất kể thành quả của họ có thô sơ cách mấy trong mắt chúng ta.
Không ai lên tiếng. Pháp quan ngồi bán loã thể và toát mồ hôi mặc dù trời đêm đang lạnh. Một hồi sau cựu linh mục Tobin ngước nhìn.
Đây chợt nhận ra, gã nói, rằng hai người con đều phải chịu thiệt thòi. Vậy phải nuôi con theo cách nào mới đúng?
Thuở thơ ấu, pháp quan nói, chúng nên được tống vào hố sâu cùng chó dại. Chúng nên được bắt tìm ra manh mối tới một trong ba cánh cửa không chứa sư tử hoang. Chúng nên được ép chạy loã thân giữa miền hoang mạc cho tới khi…
Khoan đã, Tobin cất lời. Câu hỏi này rất nghiêm túc.
Và câu đáp cũng thế thôi, là lời của pháp quan. Nếu như Chúa Trời tính can thiệp vào sự tha hoá của loài người thì lẽ nào tới nay ông ta vẫn chưa làm? Sói còn thanh trừ lẫn nhau, anh à. Còn sinh vật nào làm được nữa? Và chẳng phải loài người hung bạo hơn bội phần hay sao? Quy luật của thế gian này là đơm bông và nở bừng rồi chết úa nhưng ở chuyện người thì không hề có suy vong và ánh trưa rạng ngời của y báo hiệu màn đêm đã khởi đầu. Tinh thần của y kiệt quệ trên tuyệt đích đạt được. Thiên đỉnh của y vừa là sự trở tối vừa là buổi chiều tà của đời y. Y yêu trò chơi ư? Cứ để y chơi vì món cược. Hãy nhìn đây, những phế tích làm bộ tộc man rợ kinh ngạc, anh không nghĩ là điều này sẽ tái diễn sao? Phải rồi. Và tái diễn. Với người phàm khác, với người con khác.
Pháp quan nhìn xung quanh. Y ngồi trước củi lửa và chỉ vận quần dài và y ngửa hai tay rồi đặt lên đầu gối. Cặp mắt y trống rỗng. Không ai trong nhóm nuôi bất cứ quan điểm về ẩn ý của thái độ này, nhưng y ngồi rất giống một thần tượng nên họ đâm đề phòng và chuyện trò kèm vẻ thận trọng như thể họ không muốn đánh động thứ gì đó đáng lẽ phải ngủ say.
—
Tối hôm sau trên đường tới rìa phía tây họ mất một con la. Nó trượt xuôi vách hẻm với thứ trong túi thồ phát nổ lặng êm giữa khí trời khô nóng và nó nhào qua ánh nắng lẫn bóng râm, lăn mình giữa cõi quạnh hiu đó cho tới khi nó rời xa tầm mắt vào khoảng không lam lạnh khiến nó mãi tiêu tan trong ký ức muôn loài sống. Glanton dừng ngựa và xem lớp đá kiên cang sâu phía dưới. Con quạ tung cánh bay từ vách đá tít bên dưới nay lượn vòng và quác lên. Trong ánh sáng chói chang tường đá dốc mang đường nét kỳ lạ và đoàn kỵ binh trên doi đất đó trông bé nhỏ ngay cả với chính mình. Glanton ngước mắt nhìn lên, thoáng qua, như thể có vật gì cần xác định trên bầu trời hoàn mỹ như đồ sứ, rồi hắn vỗ vỗ con ngựa và họ đi tiếp.
Vài ngày sau đó trên đường qua những núi mặt bàn cao họ chợt thấy hõm đốt trên nền đất nơi dân da đỏ từng nấu mét-ca và họ qua những khu rừng kỳ quái toàn cây thùa – lô hội hay còn gọi là cây thế kỷ – với nhánh hoa khổng lồ bốn mươi phít thẳng lên bầu không hoang mạc. Mỗi buổi rạng đông trong lúc thắng yên ngựa họ nhìn ngắm núi non nhợt màu phía bắc lẫn phía tây vì làn khói. Không gì bốc lên. Toán trinh sát đã lên đường, đi ngựa trong bóng tối trước khi mặt trời mọc, và cho tới đêm họ mới trở về, đoán biết khu trại trong cảnh nhờ ánh sao mờ nhạt hoặc trong bóng tối thăm thẳm nơi nhóm người ngồi giữa miền đá không củi lửa hay cái ăn hay thân tình không khác gì bầy vượn. Họ vừa khom người thầm lặng vừa ăn thịt sống mà lũ Delaware săn được ở bình nguyên bằng cung tên và họ nằm ngủ giữa đống xương. Vầng trăng khuyết dâng qua dáng đen của non núi dập tắt những vì sao phía đông và dọc theo sống núi bên cạnh là hoa trắng nở trên ngọc giá rung rinh theo gió trời và ban đêm dơi bay tới từ vực sâu của thế gian để dang cánh thăng bằng như chim ruồi đen tà ác và ăn mật ở tràng hoa. Xa hơn dọc theo sống núi và được nhấc lên một chút trên gờ sa thạch ngồi đó là pháp quan, trắng nhợt và loã thể. Y giơ tay và dơi giật mình tán loạn và rồi y hạ xuống và ngồi như trước và chẳng bao lâu chúng lại ăn tiếp.
—
Glanton không muốn nhìn lại. Những suy tính về kẻ thù bao gồm mọi xảo trá. Hắn nhắc về sự mai phục. Dù kiêu ngạo đến đâu hắn cũng không tin được là một nhóm mười chín người đã dọn sạch cư dân trong một vùng đất mười ngàn dặm vuông. Hai ngày sau toán trinh sát trở về vào giữa chiều và báo rằng đã tìm ra những ngôi làng đám Apache rời bỏ nhưng hắn lại không dám tới. Họ cắm trại trên núi mặt bàn và nhóm lửa giả và nằm cả đêm bên súng trường trên mảnh truông đầy đá. Sáng trời họ trèo lên ngựa và xuống một thung lũng hoang vu ngổn ngang lều cỏ và tàn bếp thuở kia. Họ rời ngựa và cất bước giữa nơi trú ẩn, những công trình dễ đổ bằng nhựa cây và cỏ dại dính vào mặt đất và từ nóc cong xuống làm nên cái nhà tròn mà phủ ở trên là vài mảnh da và mền cũ còn sót lại. Nền đất rải rác xương và đá lửa và qua-dít và họ tìm thấy những mảnh bình và rổ cũ và cối đá bể và vết nứt trên vỏ khô của đậu gai và con búp bê rơm cho trẻ nhỏ và cây vĩ cầm một dây thô sơ bị nghiền nát và một phần chuỗi hạt dưa khô.
Cửa nhà cao tới ngang eo và hướng đông và rất ít nơi trú ẩn đủ cao để đứng được. Nơi cuối cùng Glanton và David Brown bước vào thì được canh giữ bởi con chó lớn thân và dữ tợn. Brown rút cây súng giắt ở thắt lưng nhưng Glanton ngăn lại. Hắn quỳ một chân và nói với con thú. Nó thu mình sát bờ tường phía sau của cái nhà da đỏ và nhe răng và lắc đầu qua lại, cặp tai cụp xuống sát hai bên sọ.
Nó cắn ông bây giờ, là lời của Brown.
Đưa tao miếng thịt khô.
Hắn khom người, nói với con chó. Con chó nhìn hắn.
Chắc gì ông nuôi được con đó.
Con gì biết ăn là tao biết nuôi. Đưa tao miếng thịt khô.
Khi Brown quay lại với thịt khô trên tay thì con chó nhìn quanh vẻ lo sợ. Họ tây tiến rời thung lũng còn nó thì lon ton khập khiễng bên gót con ngựa của Glanton.
Họ lên con đường đá cũ rời thung lũng và qua đèo cao, bầy la leo dọc gờ đá như loài dê. Glanton dắt ngựa và kêu người khác đi theo, nhưng bóng tối lại phủ vây họ và họ lạc đường trong đêm giữa nơi đó, nối đuôi nhau dọc theo đường phay trên vách hẻm. Hắn vừa dẫn đầu vừa chửi rủa qua nơi tối như bưng song lối đi càng lúc càng hẹp và mặt đất càng lúc càng bấp bênh nên họ đành dừng bước. Lũ Delaware lội bộ trở về, để ngựa trên đỉnh đèo, và Glanton doạ bắn chết chúng nếu không may bị tấn công ở nơi đó.
Họ qua đêm mỗi người bên chân con ngựa mình ở nơi nó đứng trên đường mòn giữa dốc lên và dốc xuống. Glanton ngồi ở đầu với súng bày ra trước mắt. Hắn quan sát con chó. Trời sáng họ thức dậy và lên đường, gặp phải toán trinh sát khác và bầy ngựa của họ trên đỉnh đèo và sai họ đi nữa. Họ mất cả ngày qua non núi và nếu Glanton ngủ thì cũng không ai thấy.
Lũ Delaware cho rằng ngôi làng vắng tanh mười ngày qua và da đỏ Gileno chia thành nhóm nhỏ chạy khắp hướng. Không còn dấu vết để lần theo. Nhóm người đi tiếp thành hàng một xuyên miền núi. Toán trinh sát đã đi được hai ngày. Đến ngày thứ ba họ tiến vào lều trại nhưng bầy ngựa gần kiệt sức. Sáng hôm đó họ nhìn thấy lửa trên đỉnh núi mặt bàn lam nhạt cách năm mươi dặm phía nam.
(hết chương 11)