Gia Cát Lượng – kỳ tài thiên hạ hay được nâng tầm quá mức?

Tháng mười một 11, 2024

Vậy thì trong lịch sử thực tế, Gia Cát Lượng là người như thế nào? Tài năng mọi mặt của ông đến đâu, và có xứng với danh “tuyệt trí” mà nhiều người gọi hay không?

Sách “Hiến đế Xuân Thu” chép rằng năm 197, dân ở Tây thành làm phản, giết chết Gia Cát Huyền rồi đem đầu ông nộp cho Thái thú Dương Châu Lưu Do. Gia Cát Lượng vì thế liền chuyển đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, cách thành Tương Dương 20 dặm về phía tây. Ông vừa cày cấy làm ruộng vừa đọc sách. Gia Cát Lượng hay thường ví bản thân mình với Quản Trọng và Nhạc Nghị, vốn là hai danh tướng thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Người đương thời không mấy ai tin, cho là cuồng ngạo; nhưng mấy người bạn hữu thân thiết với ông như Thôi Châu Bình và Từ Thứ thì lại tin rằng ông có tài năng sánh ngang được với Quản Trọng, Nhạc Nghị.

Gia Cát Lượng, tranh vẽ thời nhà Thanh

Gia Cát Lượng, tranh vẽ thời nhà Thanh

Gia Cát Lượng khi đọc sách chủ yếu xem xét đại lược, khác với nhiều bạn học đọc sách tỉ mỉ, chăm chú đến tiểu tiết. Nhiều người nhận xét rằng như thế mới là biết đọc sách, vì ông biết cách nắm bắt cái tinh tuý cốt yếu trong sách, chứ không tầm chương trích cú, câu nệ từng chữ. Gia Cát Lượng cũng nói các bạn của mình như Thạch Thao, Từ Thứ, Mạnh Kiến sau này có thể làm đến quan cai trị một châu hay một quận. Nhưng khi được hỏi về bản thân mình thì ông “chỉ cười không đáp”. Thật ra câu trả lời đã rất rõ ràng: Gia Cát Lượng không muốn làm đế vương mà cũng chẳng muốn làm quan địa phương. Chí hướng của ông là muốn làm đại hiền thần phò tá một minh chủ lập nên nghiệp lớn, giống như Quản Trọng hay Nhạc Nghị khi xưa.

Lúc Gia Cát Lượng trưởng thành cũng là lúc tình hình Trung Hoa hỗn loạn, chư hầu khắp nơi nổi lên tranh giành, đấu đá lẫn nhau. Tất nhiên đây cũng là thời điểm thích hợp để những người tài năng xuất đầu lộ diện tìm một minh chủ để phò tá. Nhưng dù tình hình có biến chuyển như thế nào, Gia Cát Lượng thủy chung vẫn không xuất đầu lộ diện, dù ông không thiếu chư hầu để chọn. Không thể nói là Gia Cát Lượng không có chí lớn, bởi người tự ví mình với Quản Trọng và Nhạc Nghị làm sao lại không có khát vọng kiến công lập nghiệp được. Thực ra cũng chính vì có chí lớn nên Gia Cát Lượng mới cẩn thận lựa chọn xem nên phò tá ai mới đúng với mong muốn của mình. Và cuối cùng như chúng ta đã thấy, Gia Cát Lượng đã chọn phò tá cho Lưu Bị.

Ban đầu, Lưu Biểu đối đãi với ông rất hậu, nhưng sau đó Lưu Biểu nhận ra chí lớn của Lưu Bị, mà hào kiệt ở Kinh Châu cũng nhiều người theo về với Lưu Bị nên tỏ ra ngờ vực, cảnh giác với ông. Lưu Biểu không muốn để Lưu Bị ở lại Tương Dương, bèn cử ông đem quân ra đóng ở huyện Tân Dã, là cửa ngõ của Kinh Châu với phía bắc, rất gần kinh đô Hứa Xương.

Thực ra, những ghi chép này không hẳn là mâu thuẫn, mà có thể đều thực sự xảy ra, theo trình tự là Gia Cát Lượng sớm tự tiến cử trước, nhưng chưa thực sự được Lưu Bị coi trọng và trở về. Sau đó Lưu Bị nhận ra tài năng thực thụ của Khổng Minh, hạ mình 3 lần tới lều tranh tìm gặp. Bởi vì xét việc Lưu Bị ở Kinh Châu đã nhiều năm, nhân sĩ theo về không ít, đương nhiên ông chắc chắn phải nghe đến danh tiếng của Gia Cát Lượng. Nhưng vì lúc ấy Gia Cát Lượng mới ngoài 20 tuổi, còn rất trẻ, thật không dễ để Lưu Bị lập tức tin tưởng vào tài năng. Phải đến khi trò chuyện với Tư Mã Huy và sau đó là Từ Thứ, ông mới thực sự nhận ra giá trị của Gia Cát Lượng, nên mới có câu chuyện “3 lần đến lều tranh” nổi tiếng.

Thực ra lý do cũng không quá khó hiểu. Lưu Biểu kém cỏi, không có chí lớn, danh sĩ Kinh Châu không ít mà Lưu Biểu chẳng biết dùng, thế thì Gia Cát Lượng làm sao có cơ hội? Tào Tháo thì lại quá mạnh, nhân tài rất nhiều; đến đó cũng chưa chắc đã được dùng. Hơn nữa, chí hướng của Gia Cát Lượng là trở thành người như Quản Trọng, Nhạc Nghị – tức là có thể được trọng dụng để làm nên bá nghiệp. Nhân tài bên Tào Tháo đã rất đông đúc chật chội, chí hướng của Gia Cát Lượng khó có thể thành hiện thực. Còn nếu theo với Tôn Quyền thì cũng lại có những khó khăn riêng. Nguyên do là quyền lực phía Giang Đông chủ yếu nằm trong tay thế tộc bản địa. Vậy nên dù Gia Cát Lượng tài năng ra sao thì sang Giang Đông mà thiếu chỗ dựa cũng khó mà cạnh tranh nổi với những người như Trương Chiêu hay Chu Du. Cùng lắm ông cũng chỉ có thể ngang với Lỗ Túc, mà như đã nói, đó không phải điều Gia Cát Lượng mong muốn.

Như vậy, tiêu chuẩn chọn lựa minh chủ của Gia Cát Lượng đã quá rõ ràng. Thứ nhất, người đó có khả năng xây dựng một chính quyền mới, một đất nước mới, một vương triều mới. Người đó cần phải có chí hướng và điều kiện. Thứ hai, chí hướng và điều kiện của người đó còn chưa rõ ràng, đang trong tiềm thức, chí hướng đó chưa ai biết, ngay cả bản thân cũng chưa xác định rõ; còn điều kiện cũng chưa thành thục, thậm chí còn khiếm khuyết. Chính vì chưa xác định rõ, có khiếm khuyết, nên mới cần một người như Gia Cát Lượng. Cũng chính vì chưa xác định có khiếm khuyết, Gia Cát Lượng mới trở thành người định hình và vạch ra phương hướng, nắm vai trò quan trọng.

Rõ ràng trong số chư hầu, chỉ có Lưu Bị là người thích hợp. Ông vốn thuộc dòng dõi tông thất, tuy nghèo khó nhưng ít nhiều vẫn được kính trọng vì mang họ Lưu. Ông cũng là người có chí đế vương, là kẻ kiêu hùng không chịu an phận (mà như chính Tào Tháo đã nhận định rằng Lưu Bị là anh hùng và là kẻ nguy hiểm, dù thế lực của Lưu Bị luôn rất yếu ớt). Dù thường xuyên long đong lận đận, nhưng vẫn có nhiều tướng sĩ hết mực trung thành với Lưu Bị; ấy chính là cái bá khí của một minh chủ đáng phò tá. Vì nhận định rằng Lưu Bị là người đáng phò tá, và bản thân có thể giúp ông gây dựng cơ nghiệp, Gia Cát Lượng mới vạch ra “Long Trung sách”. Với Lưu Bị còn đang lạc lối và lận đận, “Long Trung sách” thực sự như một phương thuốc hữu hiệu có thể giúp ông đứng ra tranh hùng với các thế lực hùng mạnh khác. Như vậy chẳng lạ mà Lưu Bị coi việc mình có được Gia Cát Lượng phò tá giống như cá gặp nước. Nhiều sử gia và nhà nghiên cứu cũng đánh giá rất cao tầm nhìn của Gia Cát Lượng qua việc vạch ra “Long Trung sách”, ca ngợi ông là “chưa ra khỏi lều cỏ đã biết thiên hạ chia ba”. Nhưng thực ra có lẽ đúng hơn thì phải nói rằng Gia Cát Lượng “chưa ra khỏi lều cỏ đã định sẽ chia ba thiên hạ”.

Biết tin, Lưu Bị rất giận, lại nghĩ rằng lực lượng của mình nhỏ yếu không thể cự địch, ông bèn bỏ thành rút về phía nam. Mục đích của ông là đến Giang Hạ hợp binh với con trưởng Lưu Biểu là Lưu Kỳ, đồng thời cố gắng kiểm soát Giang Lăng là nơi tích trữ lương thảo vũ khí của Kinh Châu. Lưu Bị cử Quan Vũ đem thủy quân đi Giang Hạ trước, ông cùng Gia Cát Lượng và các tướng khác đem chủ quân đi Giang Lăng. Hàng vạn dân Kinh Châu không muốn hàng Tào Tháo cũng xin được đi theo, Lưu Bị đều đồng ý cả. Khi đi qua Tương Dương, Gia Cát Lượng có khuyên Lưu Bị nên đánh úp chiếm Tương Dương, nhưng ông không đồng ý. Nhiều quan lại và dân chúng ở xung quanh Tương Dương cũng sợ bị quân Tào tàn sát nên bỏ Lưu Tông chạy theo Lưu Bị, thành ra đi theo ông có đến 10 vạn dân và mấy nghìn cỗ xe lớn nhỏ.

Lưu Bị rút về Hạ Khẩu thì vừa lúc ấy có Lỗ Túc từ bên Giang Đông sang, khuyên ông liên minh với Tôn Quyền cùng chống Tào. Tình thế bấy giờ cực kỳ nguy ngập khi Tào Tháo đã lấy được Giang Lăng, bèn lập tức chuẩn bị tiến quân tiếp. Lưu Bị lúc ấy hợp quân với Lưu Kỳ lại thì cũng chỉ có 2 vạn người, làm sao chống nổi đại quân Tào Tháo? Lỗ Túc đến khuyên Lưu Bị nên liên minh với Tôn Quyền, nhưng binh mã Giang Đông bấy giờ lại đang đóng ở Sài Tang, có ý đợi xem thành bại. Do đó, Gia Cát Lượng đã đứng ra xin được đi sứ Đông Ngô để thuyết phục Tôn Quyền hạ quyết tâm liên minh cùng đánh Tào Tháo, Lưu Bị đồng ý ngay.

Tôn Quyền nghe xong, liền tỏ rõ quyết tâm đánh Tào. Vốn dĩ Giang Đông nhiều người chủ trương đầu hàng, tránh đối địch với Tào Tháo, nhưng bản ý Tôn Quyền cũng không muốn khuất phục dưới trướng người khác mà muốn hùng cứ một phương. Hơn nữa, từ những cuộc thảo luận trước đó trong nội bộ Đông Ngô, Lỗ Túc cũng đã chỉ rõ rằng ai hàng Tào cũng được, duy chỉ có Tôn Quyền là không thể. Bởi vì Tôn Quyền có danh vọng lớn, Tào Tháo đương nhiên khó mà để yên. Vì thế nên Tôn Quyền cũng đã có chủ định đánh Tào từ trước, thêm vào Gia Cát Lượng thuyết phục, ông càng quyết tâm hơn.

Khác với tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” tô vẽ thì kỳ thực Gia Cát Lượng không có đóng góp gì vào trận Xích Bích. Vai trò của ông chỉ là ngoại giao và nội chính mà thôi; chứ hoàn toàn không có những chuyện như “thuyền cỏ mượn tên” hay “cầu gió đông” gì cả. Thậm chí việc Gia Cát Lượng nhiều lần chọc tức Chu Du, đỉnh điểm là thừa cơ nẫng tay trên cả Giang Lăng và Tương Dương cũng không đúng. Thực tế là Chu Du cầm quân vây đánh Giang Lăng gần một năm trời mới chiếm được, và trong lúc đó thì lực lượng của Lưu Bị đang trong quá trình đánh chiếm 4 quận phía nam Kinh Châu.

Theo ghi chép từ các phần thuộc “Ngụy thư – Tam quốc chí” thì lực lượng của Lưu Bị cũng bị tổn hại nhiều trong các trận Xích Bích – Giang Lăng. Quan Vũ được Lưu Bị phái mang quân lên phía Bắc nhằm chia cắt liên lạc giữa Thượng Giang và Giang Lăng, chặn đường rút lui của Tào Nhân. Thế nhưng ông liên tiếp bị Thái thú Nhữ Nam là Lý Thông và tướng giữ Tương Dương là Nhạc Tiến đánh bại. Sau đó lại còn bị tướng Văn Sính dùng thủy binh đuổi đánh, bị đốt sạch thuyền và quân nhu, mất hết thủy quân Giang Hạ.

Năm 211, Thứ sử Ích Châu là Lưu Chương mời Lưu Bị đem quân vào để chống Trương Lỗ ở Hán Trung. Gia Cát Lượng không theo vào mà ở lại giúp Quan Vũ và Trương Phi trấn thủ Kinh Châu. Đến các năm 213 – 214, Lưu Bị sau khi xây dựng thế lực ở Ích Châu đã quay sang đánh úp Lưu Chương, chiếm các thành trì trong Thục. Cuối năm 213, Lưu Bị lệnh cho Gia Cát Lượng, Triệu Vân và Trương Phi cùng đem quân vào tiếp ứng. Trong chiến dịch chiếm Ích Châu này, chủ yếu bày mưu đánh trận cho Lưu Bị là Pháp Chính – thủ hạ cũ của Lưu Chương và Bàng Thống, tuy nhiên Bàng Thống lại không may trúng tên chết ở Lạc Thành năm 214. Cũng trong năm 214, Mã Siêu rời bỏ Trương Lỗ theo hàng Lưu Bị, cũng tham gia bao vây Thành Đô. Dân trong thành thấy quân Mã Siêu lại tưởng đấy là quân Tây Lương nên càng sợ hãi. Cuối cùng sau mấy chục ngày vây hãm, Lưu Chương mở cổng thành đầu hàng, đất Thục đều được bình định. Cánh quân của Gia Cát Lượng không tham chiến trận nào lớn trong chiến dịch này.

Gia Cát Lượng quan tâm đến đời sống nhân dân ở đất Thục, nên sau 3 năm, Ích Châu đã đủ lương, đủ lính, có thể cung ứng đầy đủ cho nhu cầu tiền tuyến của Lưu Bị. Để ổn định tài chính, Gia Cát Lượng còn cho đúc tiền mới, bình ổn vật giá, lập ra quan chợ chuyên quản lý thị trường. Trước kia, Tào Tháo đúc tiền ngũ thù vẫn chẳng thể cứu vãn được tình hình tiền tệ rối loạn từ cuối thời Đông Hán. Ở Đông Ngô, Tôn Quyền sau này từ năm 236 đến năm 238 đã hai lần thay đổi đồng tiền, cho thấy tiền tệ nước này cũng rất không ổn định. Lưu Bị sau khi chiếm được Ích Châu, cho đúc tiền 100 đồng mà lại không có biến đổi gì xáo trộn, cho thấy cách xử lý của Gia Cát Lượng về vấn đề này thành công hơn hẳn. Tiền tệ của Thục Hán sau này chẳng những được lưu thông trong nước mà ở vùng Kinh Châu lúc đó cũng lưu hành. Dưới sự điều hành của Gia Cát Lượng, sự phát triển kinh tế của Ích Châu lúc đó được xem là khá thành công.

Trong lúc đó, ở phương bắc liên tục xảy ra một loạt sự kiện: giữa năm 220 thì Tào Tháo qua đời, Tào Phi kế vị ngôi Ngụy vương; đến cuối năm thì ép Hán Hiến đế nhường ngôi, thành lập nhà Ngụy. Mấy tháng sau thì đến lượt Lưu Bị cũng xưng đế nhằm kế tục nhà Hán, Gia Cát Lượng được phong làm Thừa tướng kiêm Lục thượng thư sự. Vừa lên ngôi, Lưu Bị đã lập tức lập kế hoạch đông chinh đánh Ngô, vừa để báo thù cho Quan Vũ vừa để giành lại Kinh Châu. Quần thần nhiều người can ngăn khuyên bảo mà không được, cuối cùng dẫn đến thảm bại ở Di Lăng – Hào Đình, Lưu Bị phải vất vả lắm mới chạy được về thành Bạch Đế (sau khi chạy về đây ông đổi tên nơi này thành Vĩnh An). Khi nghe tin bại trận, Gia Cát Lượng ở Thành Đô đã than rằng giá mà Pháp Chính còn thì tất có thể ngăn cản Lưu Bị đông chinh, hoặc có đi thì cũng không đến nỗi thảm bại như thế này.

Sự kiện Lưu Bị phó thác con côi cho Gia Cát Lượng là một sự kiện quan trọng trong lịch sử hơn 40 năm của nhà Thục Hán. “Tam quốc chí” chép rằng lúc ủy thác cho Gia Cát Lượng, Lưu Bị đã nói rằng:

“Tài của ngài gấp mười lần Tào Phi, tất yên định được quốc gia, cuối cùng hoàn thành đại nghiệp. Nếu con trẫm có thể giúp được, hãy giúp; ví như nó bất tài, ngài hãy tự làm chủ.”

Về việc này, có người khen rằng việc này là hình mẫu tiêu biểu của quan hệ quân – thần mẫu mực, thân thiết và tin tưởng hết mực. Lý do là bởi Lưu Bị có thể yên tâm giao phó đất nước cùng Thái tử vào tay Gia Cát Lượng đã là biểu thị tin tưởng rồi. Mấy chữ “ví như nó bất tài, ngài hãy tự làm chủ” của Lưu Bị là để nói rằng: nếu Lưu Thiện bất tài không thể đảm đương đại sự, vậy Gia Cát Lượng có thể tự thay. Trong thời đại quân chủ cha truyền con nối bất di bất dịch thì điều đó không chỉ khó thấy, còn có thể coi là vô cùng vĩ đại. Điều đó có nghĩa là đặt lợi ích đất nước và đại nghiệp trên tất cả, đến mức sẵn sàng vứt bỏ quyền lực trời ban. Như vậy đúng là chí công vô tư và đáng ngưỡng mộ. Nhưng rõ ràng, đánh giá như vậy là quá đơn giản, quá ngây thơ và lãng mạn, không thực tế chút nào.

Cũng có người bảo rằng câu “ngài hãy tự làm chủ” không phải bảo Gia Cát Lượng tự lên ngôi, mà là nếu Lưu Thiện kém cỏi, có thể chọn một hoàng tử khác kế vị, tức là cho ông quyền được phế lập. Ý này được nhiều người cho là hợp lý, vì dù sao quan hệ quân – thần giữa Lưu Bị và Gia Cát Lượng cũng thân thiết hiếm có. Mà lúc lâm chung xung quanh Lưu Bị cũng chẳng còn ai có thể đảm đương trọng trách và đủ để ông tin tưởng như Gia Cát Lượng. Do đó, đúng là Lưu Bị đã gửi gắm con cái, đất nước và cả chính quyền cho Gia Cát Lượng; đúng là một lòng một dạ, chí công vô tư. Gia Cát Lượng nghe mấy câu nói của Lưu Bị, đương nhiên cũng không phải vì bị dồn ép mà thề trung thành, mà ông xúc động rơi lệ thật sự. Là thần tử mà được ban cho quyền quyết định mọi việc, thậm chí cả chuyện phế lập, quả là ân trọng như núi.

Mọi thứ đều chỉ là phán đoán, nhưng dù có ý gì, thì sự thật vẫn là Lưu Bị ủy thác trọng trách cho Gia Cát Lượng; và Gia Cát Lượng cũng đã nhận lấy trách nhiệm vô cùng nặng nề. Thục Hán bước vào giai đoạn do Gia Cát Lượng lèo lái.

Nhưng đến khi Lưu Thiện lên ngôi đã cho Gia Cát Lượng mở phủ Thừa tướng, tức là cũng ngầm để cho ông chấp chưởng đại quyền. Hơn nữa, Lưu Thiện còn để cho Gia Cát Lượng lĩnh chức Thứ sử Ích Châu nữa. Tuy về mặt địa lý thực tế, Thục Hán chính là Ích Châu, nhưng xét thể chế thì Thục Hán là hoàng triều, mà Ích Châu chỉ là châu quận. Thừa tướng Thục Hán là quan ở triều đình trung ương, còn Thứ sử Ích Châu là quan lại địa phương. Thừa tướng có đủ quyền hành chính trung ương còn Thứ sử có quyền hành chính địa phương. Quyền hạn của hai chức vụ trên không giống nhau, trách nhiệm cũng khác nhau. Xét về mặt chế độ thì đó là hai chức vụ khác nhau. Lưu Thiện cho Gia Cát Lượng mở phủ Thừa tướng, lại giao cho ông lĩnh cả chức Thứ sử Ích Châu, cũng tức là trao toàn bộ Thục Hán từ quan đến dân cho ông.

Bên cạnh việc chăm lo dân chúng để duy trì phát triển kinh tế cũng như nông nghiệp, một việc quan trọng nữa mà Gia Cát Lượng cần chú tâm chính là điều hòa quyền lợi và trấn áp các phe phái trong triều. Chính quyền Thục Hán vốn được dựng nên từ lực lượng của ba phe phái: phái bản địa Ích Châu, phái Đông Châu vốn là thủ hạ cũ của Lưu Yên và Lưu Chương, phái Kinh Châu là thủ hạ cũ của Lưu Bị. Giữa các phe phái này tồn tại những mâu thuẫn và quan hệ rất phức tạp và không hề dễ điều hòa. Hơn nữa tình cảnh lúc Gia Cát Lượng nhận lãnh trọng trách lại không thể tệ hơn. Việc Lưu Bị thảm bại tại Di Lăng – Hào Đình đã châm ngòi cho một loạt những biến động.

Gia Cát Lượng vốn chủ yếu là một nhà chính trị, sở trường của ông cũng nằm ở quản lý hậu phương và nội chính hơn là bày mưu tính kế trên chiến trường. Nhưng khi Lưu Bị qua đời, không còn nhiều người đủ sức lĩnh đại quân nữa, nên Gia Cát Lượng phải quản thêm cả việc quân sự – vốn không phải sở trường của ông. Khi các quận Nam Trung làm phản, Gia Cát Lượng bèn đích thân dẫn quân thảo phạt. Mã Trung theo đường mòn Tứ Xuyên dẫn quân đánh Chu Bao ở Tang Ca. Lý Khôi thì đem quân đánh Ung Khải và Mạnh Hoạch. Gia Cát Lượng đem chủ lực đi sau. Tuy tướng lĩnh và binh lực huy động không lớn nhưng thực tế, việc đánh bại quân phản loạn thiếu tổ chức chẳng khó gì. Quân Thục nhanh chóng áp đảo và không lâu sau đã đánh bại Chu Bao. Ung Khải bị thuộc hạ Cao Định giết, còn Cao Định sau đó tử trận. Mạnh Hoạch dẫn tàn dư của Ung Khải chạy về liên hợp với các bộ lạc người Di ở phía nam.

Nhận thấy uy tín và ảnh hưởng sâu rộng của Mạnh Hoạch ở vùng Nam Trung và vì muốn giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa các bộ lạc người Di với triều đình nên Gia Cát Lượng quyết định đánh vào lòng người, coi đó là chiến thuật chủ đạo. Theo lời bàn của Mã Tắc, ông hạ lệnh cho quân Thục khi giao chiến với Mạnh Hoạch thì chỉ được bắt sống chứ không được giết hay làm Mạnh Hoạch bị thương. Mạnh Hoạch bị bắt rồi lại được thả, tiếp tục giao chiến như thế mấy lần liền, cuối cùng tâm phục khẩu phục mà chịu thần phục, thề rằng không bao giờ phản nữa. Sau khi Mạnh Hoạch chịu thần phục thì các thế lực phản loạn ở miền nam cũng nhanh chóng lần lượt quy hàng. Mùa thu năm 225, ba cánh quân đều hội ở Điền Trì, ăn mừng thắng lợi. Chỉ trong mấy tháng ngắn ngủi, Gia Cát Lượng đã bình định Nam Trung, cải thiện quan hệ với các bộ tộc người Di. Chiến công này càng giúp nâng cao vị thế và uy quyền của ông trong triều đình Thục Hán.

Gia Cát bắc phạt

Năm 227, Gia Cát Lượng bắt đầu chuẩn bị binh mã lương thảo bắc phạt đánh Ngụy. Ông dâng lên Lưu Thiện bản tấu nổi tiếng “Xuất sư biểu”, trong đó có đoạn bày tỏ rõ mục đích và quyết tâm của mình:

“Nay phương nam đã định, binh giáp đã đủ, đương lúc khích lệ ba quân, để bắc định Trung Nguyên, dốc kiệt tài mọn, diệt trừ kẻ gian hung, hưng phục Hán thất, về lại cựu đô.”

Thực ra mà nói, việc bắc phạt đánh Ngụy có nhiều khó khăn lớn. Ngụy có đất đai rộng lớn giàu có, dân cư đông đúc, binh hùng tướng mạnh, quốc lực mạnh gấp nhiều lần Thục Hán. So ra thì Thục Hán chỉ có một góc Ích Châu nhỏ bé, dân cư thưa thớt, đường sá xa xôi hiểm trở gây khó khăn cho việc tiến quân và vận chuyển lương thảo. Bản thân Gia Cát Lượng cũng không có sở trường quân sự, mà thế cục thiên hạ cũng không hoàn hảo khi Kinh Châu đã mất, không thể tiến quân hai đường như “Long Trung sách” nữa. Tuy thấy hết những khó khăn ấy, nhưng Gia Cát Lượng vẫn quyết tâm bắc phạt. Vì sao lại như vậy? Thực ra với tình hình Thục Hán lúc bấy giờ, nói không ngoa thì bắc phạt là việc cần thiết phải làm chứ không còn ở vấn đề muốn hay không nữa.

Vả lại, bắc phạt đánh Ngụy để phục hưng Hán thất vẫn là lý tưởng chính trị của Gia Cát Lượng. Đối với một người có lý tưởng thì một khi có cơ hội, họ sẽ ra sức để thực hiện lý tưởng đó. Vấn đề là ở chỗ, lý tưởng không đổi nhưng tình thế đã biến đổi. Vì vậy, mục tiêu và sách lược cũng phải thay đổi. Tức là một mặt giơ cao ngọn cờ “hưng phục Hán thất, về lại cựu đô”, giữ vững nguyên tắc “không chung sống với Hán tặc”, không ngừng Bắc phạt. Mặt khác, lại phải biết tuần tự nhi tiến, thận trọng, tiến dừng đúng lúc, không thể mạo hiểm như Quan Vũ để mất Kinh Châu hay Lưu Bị thua trận Di Lăng.

Vì tất cả những lý do đó, Gia Cát Lượng quyết định phải xuất quân tấn công Ngụy. Nhận thấy rõ khó khăn chủ đạo với quân Thục vẫn là vấn để vận chuyển lương thảo khó khăn, nên ông cử Trương Duệ và Tưởng Uyển cùng quản lý công việc ở hậu phương. Sau khi điểm binh, chọn tướng, Gia Cát Lượng quyết định dẫn toàn quân tập trung về phía bắc của Hán Trung để tiến binh sang Kỳ Sơn, trực chỉ Trường An. Bấy giờ Ngụy Diên xin Gia Cát Lượng cấp cho mình 5000 kỵ binh cùng 5000 quân vận lương. Ý định của Ngụy Diên là ông sẽ đem quân xuất phát từ Bao Trung, đi men theo núi Tần Lĩnh sang phía đông, sau đó qua đường hang Tý Ngọ để lẻn đến tập kích Trường An. Theo suy nghĩ của Ngụy Diên, phò mã Hạ Hầu Mậu trấn thủ Trường An là người hèn nhát vô mưu; nếu thấy quân Thục bất thần xuất hiện, tất bỏ thành mà chạy. Quan viên trong thành chẳng ra đâu vào đâu, nhưng lương thảo sung túc, đủ để Ngụy Diên chống giữ đợi đại quân của Gia Cát Lượng. Bấy giờ hai bên hợp binh, tất có thể bình định được vùng Quan Trung rồi.

Nhưng nhận định như vậy là đã quá đơn giản hóa tình hình và có tâm lý cầu may. Kỳ thực mưu kế của Ngụy Diên phụ thuộc quá nhiều vào suy đoán đầy cảm tính của cá nhân ông. Ngụy Diên bảo rằng Hạ Hầu Mậu nhất định sẽ chạy, nhưng lỡ không chạy thì sao? Mà nếu Hạ Hầu Mậu có chạy, thì các tướng lĩnh vẫn có thể đóng cổng thành cố thủ chứ. Hơn nữa, danh tướng nước Ngụy là Quách Hoài ở ngay gần đó, nghe tin Trường An bị vây tất nhiên tức tốc đem quân đến cứu. Ngụy Diên chỉ có 1 vạn người, làm sao chống lại được, khi ấy thì chính quân Thục mới là bên bị vây khốn. Bên cạnh đó, Ngụy Diên cho rằng đại quân Gia Cát Lượng có thể đi từ Tà Cốc lên phía bắc ngay sau đó, nhưng lại bảo rằng nếu đường tiến quân khó khăn, cả tháng vẫn chưa đến nơi thì làm sao? Nên nhớ, bất luận là Tý Ngọ hay Tà Cốc đều phải qua đỉnh cao sườn dốc, đường đi hiểm trở, khí hậu thất thường, hành trình thực khó chính xác. Đường xa tập kích, cơ hội khó lường. Dùng binh ngàn dặm, càng phải thận trọng. Huống chi quân của Ngụy Diên phải trèo đèo lội suối, gian khổ muôn phần, đến Trường An thì như dây cung đã căng hết cỡ, làm sao địch nổi quân Ngụy nhàn nhã chờ đợi? Cho nên Gia Cát Lượng thận trọng không dùng kế của Ngụy Diên là đúng. Kế hoạch vẫn được ông giữ nguyên là toàn bộ đại quân sẽ đi từ hướng Kỳ Sơn rồi tiến vào Lũng Hữu.

Dù mất Mạnh Đạt làm nội ứng, nhưng Gia Cát Lượng vẫn y theo kế hoạch xuất quân vào mùa xuân năm 228. Ông cử lão tướng Triệu Vân cùng phó tướng Đặng Chi lĩnh một cánh quân đi theo đường Tà Cốc ra huyện My làm nghi binh, giả vờ là sẽ đánh vào nơi này. Trong khi đó, đích thân Gia Cát Lượng dẫn đại quân tiến ra Kỳ Sơn.

Nghe tin đại quân Thục Hán tấn công, 3 quận thuộc Lũng Hữu là An Định, Thiên Thủy và Nam An đều đồng loạt phản Ngụy để hưởng ứng. Gia Cát Lượng cũng thu hàng được Khương Duy, một viên tướng trẻ tài năng của Ngụy. Triều đình nước Ngụy ở Lạc Dương vì không chuẩn bị nên khi có tin báo về lập tức chấn động. Tuy nhiên, Ngụy đế Tào Duệ nhanh chóng đưa ra quyết sách: cử Trương Cáp đem 5 vạn quân đi Kỳ Sơn chống Gia Cát Lượng, cử Tào Chân đem quân đến huyện My chống Triệu Vân, bản thân mình thì đến Trường An đốc chiến.

Nhai Đình thất thủ, Gia Cát Lượng bị mất bàn đạp tấn công, lỡ mất cơ hội đánh chiếm Lũng Hữu, đại quân Thục không thể tiến nữa buộc phải lui về Hán Trung. Chiến dịch đầu tiên đến đây coi như kết thúc. Quân Thục Hán thu được dân của 3 quận, nhưng không đạt mục tiêu chính là chiếm đất làm bàn đạp đánh Quan Trung. Gia Cát Lượng cho xử chém Mã Tắc nhằm tạ tội và yên lòng quân, sau đó dâng biểu về Thành Đô xin được tự giáng chức xuống thành Hữu tướng quân. Như vậy tức là về chức vị ông còn thấp hơn cả Lý Nghiêm đang là Tiền tướng quân. Tất nhiên trên thực tế, Gia Cát Lượng vẫn được quyền quản lý các công việc của Thừa tướng như cũ. Trong chiến dịch năm 228, tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” còn hư cấu thêm sự kiện “Không thành kế”. Theo đó Gia Cát Lượng đến Tây Thành vận chuyển lương thực, chỉ còn có hơn 2000 người bên cạnh mà đại quân của Tư Mã Ý đang kéo đến. Ông bèn mở toang cổng thành, cho binh lính đóng giả dân thường cầm chổi quét dọn rồi ngồi trên lầu gảy đàn. Tư Mã Ý trông thấy nghi hoặc, sợ có phục binh nên cuối cùng rút lui. Sự kiện này không có thật vì khi đó Tư Mã Ý vẫn trấn thủ Uyển Thành, và thực tế thì mãi đến chiến dịch thứ 4 thì Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý mới đối đầu nhau.

Về nguyên nhân thất bại, các tướng có người cho rằng nguyên do gặp bất lợi là binh lực quá ít. Gia Cát Lượng đã nghiêm túc trả lời rằng: Không đúng như vậy, vì trong hai trận đánh ở Kỳ Sơn và Tà Cốc, quân Thục nhiều hơn quân Ngụy, nguyên nhân thất bại chính là do bản thân ông dùng người không đúng. Ông còn nói rằng từ sau này sẽ thưởng phạt nghiêm minh, khắc phục thiếu sót. Bất kỳ ai trung thành với đất nước đều có quyền vạch khuyết điểm, có như vậy mới tiêu diệt được kẻ thù và thống nhất được thiên hạ.

Mấy tháng sau, Gia Cát Lượng lại tiếp tục xuất quân bắc phạt lần thứ ba. Ông phái tướng Trần Thức đem quân đi gấp đánh lấy được hai quận Vũ Đô và Âm Bình. Quách Hoài biết tin vội mang quân đến cứu, nhưng nghe tin đại quân Thục Hán đã tới, bèn rút lui. Gia Cát Lượng chiếm được hai quận liền thu quân, báo tin thắng trận về Thành Đô. Nhờ đó, ông được Lưu Thiện phục chức Thừa tướng như cũ.

Tháng 9 năm 231, Gia Cát Lượng lại tiếp tục xuất quân bắc phạt lần thứ tư, lần này ông tiến quân ra Kỳ Sơn. Bấy giờ Tào Chân đang bệnh nên nhà Ngụy cử Tư Mã Ý làm thống soái, chỉ huy các tướng Trương Cáp, Phí Diệu, Đái Lăng, Quách Hoài mang quân chống cự. Tư Mã Ý giao cho hai người Phí Diệu và Đái Lăng 4000 quân canh giữ Thượng Nhai, còn lại đều đến Kỳ Sơn. Gia Cát Lượng chia quân ở lại Kỳ Sơn, còn ông đem người đến Thiên Thủy lén gặt lúa. Tư Mã Ý cũng dẫn quân đến đối địch, Gia Cát Lượng không chủ quan khinh địch, ra lệnh cho quân lính chiếm cứ vùng rừng núi hiểm trở, bố trí trận địa sẵn sàng. Đại quân hai bên đối mặt nhau nhưng vẫn chưa xảy ra giao tranh.

Bốn lần liên tiếp bắc phạt thất bại, một trong những vấn đề trọng yếu nhất của quân Thục vẫn nằm ở chuyện cung ứng lương thảo. Tuy vậy, Thục Hán vẫn thu được một số thành quả nhất định, như thu được dân của 3 quận Lũng Hữu, lại chiếm được 2 quận Vũ Đô và Âm Bình. Khi đối đầu trực diện quân Ngụy, Gia Cát Lượng vẫn có thể giành được thắng lợi, đẩy lui được Tư Mã Ý, giết được Trương Cáp, còn Tào Chân thì đã bệnh mất. Do đó, Gia Cát Lượng vẫn hạ quyết tâm tiếp tục bắc phạt. Nhưng lần này ông không tiếp tục xuất quân ngay, mà dành ra hơn 2 năm để chuẩn bị. Suốt thời gian này, ông ở lại Hán Trung luyện binh, cho khai khẩn mở rộng cày cấy, tích trữ lương thảo. Sử sách còn ghi rằng để cải thiện vấn đề tải lương, Gia Cát Lượng đã chế ra trâu gỗ ngựa máy làm công cụ vận chuyển, nhưng thực hư chuyện này ra sao khó mà kiểm chứng được.

Quân Ngụy chiếm ưu thế về quân số, nhưng sau mấy lần giao tranh trực diện gặp bất lợi, Tư Mã Ý quyết định chỉ cố thủ không ra đánh. Ông biết rõ quân Thục sớm muộn cũng gặp vấn đề về vận chuyển lương thảo, cho nên kiên quyết tránh giao chiến, mặc cho Gia Cát Lượng khiêu khích. Nhiều lần bị khiêu khích, các tướng Ngụy tức giận xin ra đánh. Để yên lòng tướng sĩ, Tư Mã Ý giả vờ dâng biểu về triều xin Tào Duệ cho ra đánh. Tào Duệ biết được kế của Tư Mã Ý là cố thủ chứ không đánh, bèn phái người đến doanh trại nghiêm cấm tự ý xuất quân. Với lần bắc phạt này, tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” hư cấu việc Gia Cát Lượng dùng kế lừa Tư Mã Ý và hai con Tư Mã Sư – Tư Mã Chiêu vào Thượng Phương Cốc rồi cho quân ném rơm rạ, củi lửa chặn bít hai đầu phóng hỏa. Trong lúc Tư Mã Ý tuyệt vọng ôm hai con khóc lóc thì trời bỗng đổ mưa lớn, dập tắt hết ngọn lửa, giúp cho cha con Tư Mã Ý chạy thoát khỏi hang. Kỳ thực suốt mấy tháng liền, hai quân Thục – Ngụy không giao tranh trận nào. Tháng 7 năm 234, quân Đông Ngô sang đánh Ngụy lại bị thất bại lui về Giang Đông. Gia Cát Lượng nghe tin, lo lắng vì quân Ngụy không chịu xuất trận, lại làm việc rất vất vả, dậy sớm thức khuya, công việc lớn nhỏ đều tự mình tra xét, do đó sức khỏe ngày càng kém.

Qua đời và nhận định

Tháng 8 năm 234, Gia Cát Lượng ốm nặng trong doanh trại. Lưu Thiện ở Thành Đô nghe tin, cấp tốc sai Thượng thư Lý Phúc đến Ngũ Trượng thăm hỏi bệnh tình. Gia Cát Lượng tự biết bệnh nặng, ngày tháng không còn bao nhiêu, bèn dặn dò Lý Phúc: trước mắt sự nghiệp bắc phạt chưa thành công, hy vọng đại thần triều đình vẫn một lòng như cũ, tận tâm phò tá Lưu Thiện, kế tục hoàn thành sự nghiệp phục hưng nhà Hán mà mình chưa hoàn thành được. Lại yêu cầu Lý Phúc chuyển lời cho nhà vua rằng: sau khi ông mất không cần đưa về Thành Đô chôn cất, cứ an táng ở núi Định Quân tại tiền tuyến là được, để tượng trưng chí hướng “da ngựa bọc thây chết ở sa trường”. Lý Phúc thảy đều ghi nhớ, lại hỏi rằng sau khi Gia Cát Lượng qua đời, ai có thể thay ông đảm đương trọng trách; Gia Cát Lượng bèn đáp rằng sau ông thì nên giao trọng trách cho Tưởng Uyển, sau Tưởng Uyển thì là Phí Y.

Tư Mã Ý nghe tin Gia Cát Lượng đã mất, bèn cho quân đuổi theo. Tuy nhiên Dương Nghi đã làm theo mưu kế của Gia Cát Lượng là quay cờ về phía sau, dóng chuông đánh trống đàng hoàng tiến quân. Tư Mã Ý thấy thế, lại ngờ rằng Gia Cát Lượng chưa chết, bèn rút quân không đuổi nữa. Quân Thục vì thế an toàn lui được về Hán Trung. Việc Tư Mã Ý phải rút quân trước Gia Cát Lượng đã mất khiến nhiều người truyền tụng câu nói rằng: “Gia Cát chết vẫn đuổi được Trọng Đạt sống.” (biểu tự của Tư Mã Ý là Trọng Đạt). Khi nghe câu này, Tư Mã Ý cũng chỉ cười mà nói rằng: “Ta chỉ có thể liệu được việc sống, chứ chẳng liệu được việc chết vậy!” Rồi sau khi quân Thục đã rút hết, Tư Mã Ý có đến xem xét doanh trại do Gia Cát Lượng thiết lập, than rằng: “Thật là kỳ tài thiên hạ vậy!”

Khi quân mã về tới Thành Đô, Lưu Thiện cho đại xá thiên hạ, ban thụy cho Gia Cát Lượng là Trung Vũ hầu. Ông được chôn cất ngay tại núi Định Quân ở vùng Hán Trung theo đúng di nguyện. Mộ phần tựa vào núi, chỉ đủ chứa quan tài, liệm bằng quần áo bình thường, không chôn theo tài sản gì. Dân chúng trong Thục xin lập miếu thờ Gia Cát Lượng, nhưng Lưu Thiện không cho phép. Người dân các nơi vì thế phải tự tìm cách thờ phụng. Mãi sau quần thần xin được lập miếu thờ Gia Cát Lượng ngay tại mộ phần của ông tại núi Định Quân, Lưu Thiện mới đồng ý.

Vì ảnh hưởng từ các tích truyện dân gian và nhất là bộ tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” nên nhiều người vẫn thường có ấn tượng rằng Gia Cát Lượng là nhân vật gần như toàn năng, thiên tài quân sự, thậm chí có thể hô phong hoán vũ, sai khiến quỷ thần. Cũng chính vì ấn tượng sai lệch đó nên lại dẫn đến việc nhiều người sau khi biết về hình tượng Gia Cát Lượng trong thực tế, đã tỏ ý chê bai rằng ông thực chất không tài giỏi đến vậy. Đánh giá với góc nhìn như vậy quả thực sai lầm và thiếu công bằng với Gia Cát Lượng.

Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, Gia Cát Lượng là một nhà chính trị có tài năng kiệt xuất. Và quả thực điều khiến ông được đánh giá cao nhất chính là năng lực trị quốc. Gia Cát Lượng trị quốc theo phép, hành lệnh nghiêm chỉnh, chấp pháp như sơn. Dù là công khanh đại thần nếu phạm tội cũng đều bị trừng phạt nặng nề. Những người cậy có uy thế mà hành động tranh quyền đoạt lợi, nhất là việc gây rối loạn quan hệ nội bộ, Gia Cát Lượng đặc biệt xử lý nghiêm khắc. Đối với gia quyến người phạm tội, Gia Cát Lượng không truy bức mà sẵn sàng bổ dụng nếu có tài. Đối với những người có năng lực làm việc nhưng tính cách có tật xấu thì Gia Cát Lượng chọn cách nhắc nhở và cải tạo, cho cơ hội chuộc tội. Đối với một chính quyền nhiều rối rắm và mâu thuẫn phe phái như Thục Hán mà Gia Cát Lượng vẫn có thể điều tiết, khiến quần thần đồng lòng ra sức, rõ ràng đó là một việc không hề dễ dàng. Hơn 10 năm cầm giữ đại quyền, Thục Hán vẫn ổn định vững vàng, mọi mặt đều phát triển dù liên tục nhiều năm bắc phạt; việc đó chẳng dễ dàng gì, và rõ ràng là minh chứng cho khả năng trị quốc của ông.

So với tài năng chính trị, thì quả thực khả năng quân sự của Gia Cát Lượng có phần khiêm tốn hơn hẳn. “Long Trung sách” được xem là kế sách nổi tiếng nhất của ông, nhưng về bản chất nó giống phương hướng và sách lược phát triển hơn là một loại mưu kế cụ thể.

Có một số quan điểm dựa vào việc Gia Cát Lượng bắc phạt 5 lần vẫn không thành công để chê trách, cho rằng ông kém về mặt quân sự. Những quan điểm như vậy có phần không xác đáng, vì không xét đến hàng loạt những bất lợi rất lớn mà Gia Cát Lượng phải đối mặt. Quân Ngụy đông hơn gấp 2-3 lần, có lợi thế về kỵ binh, lại thủ sẵn trong thành lũy vững chắc, quân Thục Hán phải hành quân đường xa hiểm trở, thường bị thiếu lương do việc vận chuyển khó khăn. Với những khó khăn như vậy, những gì Gia Cát Lượng làm được đã là rất thành công, và thực hiện được mục đích lớn nhất của bắc phạt là “lấy công làm thủ”. Đánh giá về khả năng quân sự của Gia Cát Lượng, có lẽ công bằng nhất là nói ông biết dùng binh, nhưng không xuất sắc.

Gia Cát Lượng nửa đời vất vả giúp Lưu Bị lập Thục Hán, rồi sau đó lại khổ công trị quốc, giữ vững được triều đình còn non trẻ và đầy chia rẽ, quả thực đó là điều không phải ai cũng có thể làm được. Tuy rằng bắc phạt thất bại khiến ông không thể đạt được lý tưởng phục hưng Hán thất của mình, nhưng những nỗ lực của ông thì không thể không ghi nhận. Nói rằng “Khổng Minh tuyệt trí” có lẽ hơi quá mức, nhưng luận về khả năng chính trị và cáng đáng trọng trách lèo lái quốc gia, Gia Cát Lượng tuyệt nhiên là một nhân vật kiệt xuất. Về khả năng quân sự, ông có thành công và thất bại, cũng có sai sót, nhưng nếu nói rằng Gia Cát Lượng dùng binh kém cỏi thì lại quá khắt khe. Với vô vàn bất lợi khi bắc phạt, nhưng ông vẫn thu được một số thành quả nhất định, giữ yên được bờ cõi Thục Hán, chúng ta đương nhiên cũng phải ghi nhận điều đó. Có thể nói là Gia Cát Lượng đã nỗ lực hết mình để thực hiện lý tưởng, nhưng đáng tiếc, có nhiều lúc sức người dù lớn đến đâu, cũng không thể chống lại ý trời.