Lưu Bị: Kẻ kiêu hùng nhân nghĩa
Tháng mười 17, 2024
“Lưu Bị tuyệt nhân, Tào Tháo tuyệt gian, Khổng Minh tuyệt trí”, đó là câu nói nhiều người thường trích dẫn khi nhắc đến các nhân vật Tam quốc. Do ảnh hưởng từ “Tam quốc diễn nghĩa” mà nhiều người hay có ấn tượng rằng Lưu Bị chỉ là một người nhân hậu, thậm chí đến mức giả tạo, còn đâu không có thực tài và thành quả của ông hầu hết là nhờ các mưu sĩ và tướng lĩnh dưới quyền. Nhưng kỳ thực trong lịch sử, Lưu Bị không phải người bất tài; ông đúng là người theo đuổi con đường nhân nghĩa, nhưng không vì thế mà ông thiếu đi mặt kiêu hùng – thứ không thể thiếu nếu muốn sống sót trong thời chiến loạn.
Bài viết này sẽ là những tóm lược cơ bản về cuộc đời và những chiến tích của Lưu Bị – Hoàng đế khai quốc nhà Thục Hán
Tài liệu lịch sử được sử dụng trong bài chủ yếu đến từ hai bộ sử là “Tam quốc chí” và “Tư trị thông giám”.
Thân thế và thời trẻ
Lưu Bị sinh năm 161 tại huyện Trác, quận Trác, thuộc U Châu; có tự là Huyền Đức. Ông thuộc dòng dõi của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng, con trai thứ 9 của Hán Cảnh đế. Ông nội Lưu Bị là Lưu Hùng được cử làm Hiếu liêm, làm huyện lệnh huyện Phạm thuộc Đông quận. Cha Lưu Bị là Lưu Hoằng cũng nối chức ấy, nhưng mất sớm nên từ bé ông đã phải cùng mẹ lấy việc đan giày dệt chiếu kiếm sống.
Từ thời Hán Vũ đế, triều đình đã ban hành chính sách cắt giảm đất phong của các quận vương. Vì thế nên qua nhiều đời, đất phong của các vương càng ngày càng nhỏ và cuối cùng những người thuộc chi họ xa của hoàng tộc chỉ còn được hưởng rất ít tước lộc. Gia đình Lưu Bị cũng tương tự, đến đời ông thì gia đình thuộc dạng bần nông nghèo khó, chỉ có danh con cháu hoàng tộc suông.
Cũng chính vì thế nên từ xưa đến nay cũng có một vài ý kiến đặt ra nghi vấn về thân thế của Lưu Bị, rằng liệu ông có thật là dòng dõi nhà Hán hay không. “Tư trị thông giám” của Tư Mã Quang thời Bắc Tống nêu ra nghi vấn như sau:
Chiêu Liệt (tức Lưu Bị) với Hán triều, tuy nói là con cháu Trung Sơn Tĩnh vương, nhưng quan hệ thân tộc rất xa, chẳng thể xét rõ danh vị qua bao đời, cũng giống Tống Cao tổ xưng là dòng dõi của Sở Nguyên vương Lưu Giao, Nam Đường Liệt tổ xưng là hậu duệ của Ngô vương Lý Khác, đúng sai khó biện xét, nên thần chẳng dám đem Hán Quang Vũ đế và Tấn Nguyên đế ra so sánh, xem Chiêu Liệt như huyết thống còn sót lại của Hán triều vậy.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng đánh giá của “Tư trị thông giám” cũng không hoàn toàn khách quan. Quan điểm của bộ sử này lấy nước Ngụy của họ Tào là chính thống (do nước này nắm giữ được Trung Nguyên), nên coi cả Thục Hán và Đông Ngô là các nước cát cứ không chính danh. Do đó, việc “Tư trị thông giám” đặt ra nghi vấn về thân thế của Lưu Bị thực ra cũng vì quan điểm lấy Tào Ngụy làm chính thống mà ra. Còn quan điểm chủ lưu trong phần lớn các tài liệu đều ghi nhận Lưu Bị là con cháu hoàng tộc nhà Hán, đa số đều khẳng định tổ tiên ông là Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng. Ngoài ra, có sách “Điển lược” chép rằng Lưu Bị thuộc dòng dõi của Lâm Ấp hầu. Chiếu theo thế phả hoàng tộc nhà Hán thì Lưu Bị có thể hoặc thuộc dòng dõi của Trường Sa Định vương Lưu Phát (con trai thứ 6 Hán Cảnh đế, cũng là tổ tiên trực hệ của Hán Quang Vũ đế Lưu Tú), hoặc thuộc dòng dõi của Thường Sơn Hiến vương Lưu Thuấn (con trai thứ 14 Hán Cảnh đế). Nói tóm lại, dù thuộc nhánh nào thì cũng có thể tin rằng Lưu Bị đích xác là con cháu nhà Hán. Điều này không giúp gia đình Lưu Bị có được cuộc sống giàu sang hay no đủ, nhưng vẫn quan trọng trong sự nghiệp cát cứ của ông sau này.
Trong “Tam quốc chí”, Lưu Bị được mô tả là cao bảy thước rưỡi (tức khoảng hơn 1,7m), hai tay dài quá gối, có vành tai to. Ông ít nói, mừng giận không lộ ra mặt, lại không thích đọc sách mà ưa chó ngựa, hát xướng và quần áo đẹp. Ông cũng thích giao kết với hào kiệt khắp nơi. Những điểm này có thể thấy là khá tương đồng với tổ tiên của Lưu Bị là Hán Cao tổ Lưu Bang.
Do cha mất sớm nên gia cảnh nhà ông nghèo khó; Lưu Bị và mẹ phải bện giày cỏ để kiếm sống. Tuy thế, nhờ danh tiếng là con cháu hoàng tộc nên Lưu Bị vẫn có cơ hội kết giao với những người có danh vọng như Lưu Đức Nhiên hay Công Tôn Toản; lại cùng họ nhận Thái thú Cửu Giang là Lô Thực làm thầy. Lô Thực là người có tài kiêm văn võ, do vậy mà Lưu Bị học hỏi được rất nhiều.
Cũng do bản tính thích qua lại giao thiệp với hào kiệt nên Lưu Bị thường được nhiều người vây quanh. Trong số đó, ông thân thiết nhất với Quan Vũ và Trương Phi, ba người đều coi như anh em ruột thịt. Tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” kể rằng ba người Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi cùng làm lễ kết nghĩa huynh đệ trong vườn đào. Đây là một trong những chi tiết mang tính biểu tượng nhất trong các tác phẩm mang đề tài Tam quốc, nhưng kỳ thực trong chính sử không ghi lại điều này. Tuy vậy, việc ba người Lưu, Quan, Trương coi nhau như anh em ruột thịt là có thật.
Long đong lận đận khắp nơi
Năm 184, khởi nghĩa Khăn Vàng bùng nổ, nhanh chóng lan đi nhiều nơi, triều đình hạ lệnh cho quan lại các nơi chiêu binh cùng đánh dẹp. Lưu Bị khi ấy cũng hưởng ứng triều đình, mộ binh đánh quân Khăn Vàng ở quận Trác. Ông cùng hai em kết nghĩa là Quan Vũ và Trương Phi đem theo bộ thuộc của mình đi theo Hiệu úy Trâu Tĩnh. Lưu Bị tác chiến mấy trận đều thắng lợi, góp công dẹp Khăn Vàng và được phong làm Huyện úy An Hỉ. Được một thời gian, triều đình có chiếu thư xuống các châu quận thông báo rằng những người có quân công được làm trưởng lại, đều bị sa thải. Lưu Bị nghi ngờ mình cũng trong số đó. Sau đó, có viên Đốc bưu đến huyện, Lưu Bị muốn xin gặp nhưng gã xưng bệnh không chịu tiếp. Ông giận lắm, bèn quay về sở quan, dẫn thuộc hạ đi thẳng đến quán dịch, xông vào tận cửa, bảo rằng mình được mật lệnh của quan phủ để bắt viên Đốc bưu. Thế rồi Lưu Bị xông vào giường trói viên Đốc bưu lại, lôi ra ngoài trói vào gốc cây đánh gã hơn trăm roi rồi bỏ chức Huyện úy mà đi. Tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” gán việc đánh Đốc bưu này cho Trương Phi để làm nổi bật tính cách nóng nảy của nhân vật này; nhưng thực chất chính Lưu Bị là người ra tay.
Ít lâu sau, Đại tướng quân Hà Tiến sai Vô Khâu Nghị đến mộ binh ở Đan Dương. Lưu Bị đến xin theo để lập công chuộc tội. Khi đi qua Hạ Bi có quân cướp, Lưu Bị lập công giúp Vô Khâu Nghị dẹp yên. Vì vậy ông được tiến cử với triều đình. Triều đình sau đó xá tội đánh Đốc bưu cho Lưu Bị, cho ông lĩnh chức Huyện thừa Hạ Mật. Ít lâu sau, ông bỏ chức đó, được chuyển sang làm Huyện úy Cao Đường, rồi thăng lên Huyện lệnh.
Năm 188, có giặc cướp đánh phá huyện Cao Đường, Lưu Bị không đẩy lui được, bèn bỏ đến nương nhờ người bạn học cũ là Công Tôn Toản, bấy giờ đang là Trung lang tướng ở U Châu. Công Tôn Toản bèn tiến cử Lưu Bị làm Biệt bộ Tư mã. Năm 189, Hán Linh đế băng hà, Đại tướng quân Hà Tiến lập hoàng tử Lưu Biện lên thay, tức là Hán Thiếu đế. Bấy giờ trong triều xảy ra biến loạn, Hà Tiến mưu giết hoạn quan nhưng chưa kịp hành động đã bị ám sát. Bộ thuộc của Hà Tiến bèn đánh vào cung, tru diệt hoạn quan. Ngay sau đó, Thái thú Hà Đông Đổng Trác kéo quân vào kinh thành theo lời kêu gọi của Hà Tiến từ trước, khống chế triều đình, phế Hán Thiếu đế, lập Trần Lưu vương Lưu Hiệp lên ngôi. Đây là tiền đề dẫn đến việc vào đầu năm 190, 11 chư hầu vùng Quan Đông cùng khởi binh đánh Đổng Trác.
Trong “Tam quốc diễn nghĩa”, La Quán Trung mô tả rằng Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi cũng đem quân bản bộ đi theo Công Tôn Toản gia nhập liên minh. Rồi sau đó xảy ra trận Hổ Lao Quan nổi tiếng, ba anh em Lưu, Quan, Trương cùng vây đánh Lã Bố. Tuy nhiên trên thực tế, trận Hổ Lao Quan không có thật đã đành, mà Công Tôn Toản cũng không có trong liên quân Quan Đông. “Tam quốc chí” có chép rằng Lưu Bị khởi binh đi theo đánh dẹp Đổng Trác, nhưng không có thông tin gì về việc ông tham gia dưới quyền ai hay đánh trận nào. Do đó, có lẽ ghi chép này muốn nói là Lưu Bị cũng muốn đem quân gia nhập liên minh, nhưng hẳn là chưa kịp làm gì thì quân Quan Đông đã tan rã. Đổng Trác cũng tránh đối đầu trực diện với quân Quan Đông mà đốt bỏ Lạc Dương, dời đô về Trường An.
Liên quân Quan Đông tan rã rồi, các chư hầu lại quay sang đánh lẫn nhau. Viên Thiệu bấy giờ đánh thắng Hàn Phức, chiếm được Ký Châu, sau đó xung đột với Công Tôn Toản để tranh giành vùng Hà Bắc. Công Tôn Toản bèn phong cho tướng dưới quyền là Điền Khải làm Thứ sử Thanh Châu, cử Lưu Bị đem quân theo giúp. Để đối phó, Viên Thiệu cũng phong cho con mình là Viên Đàm làm Thứ sử Thanh Châu. Hai bên giao chiến mấy trận không phân thắng bại, Lưu Bị vì có công giúp Điền Khải nên được phong làm Bình Nguyên tướng, rất được lòng dân chúng. Thời ấy trong vùng nhiều năm mất mùa đói kém, người tụ tập nhau làm cướp rất nhiều. Lưu Bị làm Bình Nguyên tướng, bên ngoài thì ngăn ngừa giặc cướp, bên trong thì chăm lo dân chúng, đối đãi thi ân nên người trong vùng rất yêu mến ông.
Năm 193, Tào Tháo khởi binh đánh Từ Châu báo thù cho cha, thế quân hùng mạnh, giết hại rất nhiều quân dân. Thứ sử Từ Châu là Đào Khiêm chống không nổi, phải rút vào thành Đan Dương cố thủ và cầu cứu Điền Khải, Điền Khải bèn cử Lưu Bị đem quân đi trước. Lưu Bị đem mấy nghìn quân sang, lại được Đào Khiêm cấp cho 4000 quân nữa, trước sau có khoảng một vạn người, cố thủ Đan Dương. Tào Tháo vây đánh nhiều ngày không được, ít lâu sau, thủ hạ của Tào Tháo là Trần Cung hợp mưu với Trương Mạc, tôn Lã Bố làm chủ và đánh úp Duyện Châu. Tào Tháo buộc phải rút khỏi Từ Châu, lui về chiến đấu với quân Lã Bố.
Từ Châu được giải vây, Đào Khiêm rất biết ơn Lưu Bị đã đến cứu giúp. Lưu Bị nhân việc này cũng quyết định rời bỏ Điền Khải về với Đào Khiêm. Đào Khiêm có ý tiến cử Lưu Bị làm Thứ sử Từ Châu thay mình, nhưng ông từ chối. Cuối cùng, Đào Khiêm dâng biểu tiến cử Lưu Bị làm Thứ sử Dự Châu, đóng quân ở thành Tiểu Bái. Không bao lâu sau, Đào Khiêm bệnh nặng, trước khi qua đời dặn các thủ hạ là My Trúc và Trần Đăng nghênh đón Lưu Bị về tiếp quản Từ Châu. Hai người sau đó thuật lại lời trăng trối của Đào Khiêm, nhưng Lưu Bị vẫn không dám nhận mà có ý muốn nhường cho Viên Thuật, bấy giờ đang ở Thọ Xuân, có danh vọng lại có lực lượng khá mạnh. Tuy nhiên, Trần Đăng hết sức can ngăn, bảo rằng nếu không phải Lưu Bị tiếp quản Từ Châu thì không ai khác phù hợp. Bấy giờ Bắc Hải tướng là Khổng Dung cũng đang có mặt, bèn khuyên Lưu Bị rằng:
Viên Công Lộ há phải bậc lo nước quên nhà đâu! Xương khô trong mả, sao đáng để ý! Việc hôm nay, trăm họ giúp người tài, trời cho không lấy, hối chẳng kịp vậy!
Mọi người xúm vào khuyên can, cuối cùng Lưu Bị cũng đồng ý tiếp quản Từ Châu. Đến năm 195, Lã Bố thất bại trong cuộc chiến tranh giành Duyện Châu với Tào Tháo, bèn chạy sang nương nhờ Lưu Bị. Ông bèn để cho Lã Bố đóng quân ở thành Tiểu Bái. Năm 196, Tào Tháo đón được Hán Hiến đế về Hứa Xương, bắt đầu thao túng và kiểm soát triều đình. Để chia rẽ các lực lượng chư hầu phía đông, Tào Tháo mượn danh thiên tử phong Lưu Bị làm Trấn đông tướng quân, tước Nghi Thành đình hầu. Cũng trong năm đó, Viên Thuật ở Thọ Xuân khởi binh tấn công Lưu Bị để tranh đoạt Từ Châu. Lưu Bị bèn giao thành Hạ Bi cho Trương Phi giữ, còn bản thân ông cùng Quan Vũ đem quân tới cự địch ở Hu Di, Hoài Âm. Hai bên giao tranh với nhau mấy tháng liền bất phân thắng bại. Ở Hạ Bi, Trương Phi bất hòa với tướng cũ của Đào Khiêm là Tào Báo, bèn tìm cách giết chết Tào Báo, trong thành bắt đầu loạn. Viên Thuật đánh Lưu Bị mãi không được, bèn gửi thư cho Lã Bố xui đánh úp Hạ Bi và hứa đem quân lương giúp cho. Lã Bố vốn đã lo ngại khi Lưu Bị kết giao với Tào Tháo, bèn lập tức nhận lời, đem quân đánh úp thành Hạ Bi. Có viên Trung lang tướng tên Hứa Đam trong thành làm phản, mở cổng đón quân Lã Bố. Trương Phi chống không nổi phải bỏ thành chạy đến, gia quyến của Lưu Bị đều bị quân Lã Bố bắt được.
Mất thành Hạ Bi, quân Lưu Bị ở Hoài Âm dần thất thế, ông phải lui về Quảng Lăng tiếp tục chống cự. Thế nhưng do quân ít thế yếu, tình thế cấp bách, Lưu Bị lại buộc phải quay về Từ Châu đầu hàng Lã Bố. Lã Bố đồng ý, trao trả gia quyến cho ông. Sau đó, Lã Bố tự xưng là Thứ sử Từ Châu, phong Lưu Bị làm Thứ sử Dự Châu, cho đóng quân ở Tiểu Bái. Tuy mang danh Thứ sử Dự Châu, nhưng trên thực tế Lưu Bị chỉ có quyền kiểm soát quận Tiểu Bái, vốn do Từ Châu nắm giữ từ thời Đào Khiêm mà thôi.
Viên Thuật thấy Lưu Bị và Lã Bố đã hòa hoãn, lo rằng mình có thể gặp bất lợi, bèn ngỏ ý kết thông gia với Lã Bố. Lã Bố cũng đồng ý và chấp thuận gả con gái cho con trai Viên Thuật. Đạt được mục đích rồi, Viên Thuật lại sai tướng Kỷ Linh đem 3 vạn quân đánh Lưu Bị ở Tiểu Bái. Lưu Bị ít quân, biết không chống nổi, bèn cầu cứu với Lã Bố. Thủ hạ của Lã Bố nhiều người khuyên không nên cứu mà mượn tay Viên Thuật giết Lưu Bị để trừ hậu họa. Tuy nhiên Lã Bố không đồng ý mà muốn cứu Lưu Bị để có người chắn giữ mặt trước cho mình. Lã Bố sau đó tức tốc đem hơn nghìn quân đến Tiểu Bái yêu cầu hai bên phải hòa giải, không được đánh nhau nữa. Lã Bố sai cắm kích ở xa và giao hẹn sẽ bắn tên, nếu trúng vào ngạnh kích thì hai bên phải giảng hòa. Sau đó Lã Bố giương cung bắn trúng ngay ngạnh kích. Kỷ Linh đã trót hứa, buộc phải thu quân về.
Lưu Bị thoát nạn, bèn ra sức tập trung phát triển thế lực. Lực lượng của ông dần lớn mạnh, lên đến hơn vạn người. Tuy vậy, Lưu Bị vẫn ở trong tình trạng gần như bị cô lập với các thế lực khác. Với các chư hầu liền kề như Tào Tháo và Viên Thuật, ông đều từng kết oán. Lã Bố tuy vừa cứu giúp, nhưng bản tính tráo trở. Công Tôn Toản tuy có thiện chí, nhưng ở quá xa, lại đang giành giật lãnh thổ với quân Viên Thiệu ở Hà Bắc. Để khắc phục tình trạng bị cô lập, Lưu Bị chủ động nối lại hòa khí với Viên Thiệu bằng cách tiến cử lên với triều đình cho con Viên Thiệu là Viên Đàm làm Mậu tài, một chức vị có danh vọng lớn.
Năm 197, Viên Thuật xưng Hoàng đế ở Thọ Xuân, ra sức kết thân với Lã Bố. Cũng trong khoảng thời gian này, việc thế lực Lưu Bị lớn mạnh làm Lã Bố lo ngại và căm ghét. Cuối cùng, Lã Bố cử tướng Cao Thuận đem quân bất thần tấn công, Lưu Bị thua lớn, không còn cách nào khác, buộc phải đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo mừng lắm, lập tức sai Hạ Hầu Đôn đem quân tới cứu nhưng vẫn không kịp, cả hai đạo quân đều thua trận phải rút lui. Lưu Bị sau đó cũng theo về Hứa Xương, được Tào Tháo đối đãi rất hậu. Tào Tháo cũng mượn danh thiên tử, vẫn để Lưu Bị làm Thứ sử Dự Châu như trước.
Bộ thuộc của Tào Tháo nhiều người khuyên ông rằng Lưu Bị là người có chí anh hùng, nên sớm tìm cách diệt trừ kẻo sau thành họa. Tào Tháo đem việc này hỏi ý kiến mưu sĩ Quách Gia, Quách Gia bảo rằng lời các tướng tuy đúng, nhưng hiện nay Tào Tháo lực lượng vẫn còn mỏng, tuy đã ra sức chiêu mộ người tài nhưng chưa hiệu quả. Thế nên Lưu Bị cùng quẫn theo về mà lại lập tức diệt trừ, tức là tự chuốc tiếng xấu. Vẫn là nên hậu đãi nhưng tìm cách khống chế là hơn. Tào Tháo đồng ý với cách nhìn của Quách Gia, vẫn đối đãi rất hậu với Lưu Bị, cấp thêm quân và lương thảo cho ông.
Tháng 9 năm 198, Tào Tháo đích thân đem quân đánh Lã Bố, Lưu Bị cũng theo cùng. Quân Lã Bố liên tiếp bại trận, phải rút vào cố thủ trong thành Hạ Bi. Cuối cùng Tào Tháo dùng mưu, khơi nước hai con sông Nghi và Tứ làm ngập thành. Các tướng Hầu Thành, Tống Hiến và Ngụy Tục làm phản, mở cổng đón Tào Tháo vào thành. Lã Bố không thoát được, bị bắt sống trên lầu Bạch Môn. Lã Bố muốn xin Tào Tháo cho mình đầu hàng, lại nhờ Lưu Bị nói giúp. Nhưng Lưu Bị khuyên Tào Tháo nên giết Lã Bố vì Lã Bố là người hay trở mặt. Tào Tháo nghe theo ông, bèn cho người giết Lã Bố.
Dẹp xong Lã Bố, Tào Tháo cùng Lưu Bị thu quân về Hứa Xương. Tuy vậy, Tào Tháo không trả lại Từ Châu cho Lưu Bị mà phong thủ hạ là Xa Trụ làm Thứ sử để trấn giữ, đồng thời giữ Lưu Bị ở lại để khống chế. Ngoài mặt, Tào Tháo vẫn đối đãi rất hậu với ông, lại tỏ ra rất thân tình, đến mức “đi cùng xe, ngồi cùng chiếu”, lại mượn danh thiên tử mà phong cho Lưu Bị chức Tả tướng quân. Tuy vậy trên thực tế, Lưu Bị luôn luôn nằm trong tầm kiểm soát của Tào Tháo và cũng không được can dự gì vào việc triều chính. Bản thân ông cũng rất bất bình trước việc Tào Tháo kiểm soát triều đình, bèn âm thầm có ý chống lại. Lưu Bị cùng một số quan lại trung thành như Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Chung Tập, Ngô Thạc mưu giết Tào Tháo để phò tá Hán Hiến đế, nhưng chưa tìm được cơ hội. Mặt khác, Tào Tháo cũng nhiều lần tìm cách thử xem Lưu Bị có mưu đồ gì không. Tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” dựa theo việc này mà xây dựng chuyện Tào Tháo và Lưu Bị uống rượu luận anh hùng rất đặc sắc khi hai người đàm luận rất dài về các chư hầu thời ấy.
Tuy vậy trên thực tế, câu chuyện “luận anh hùng” này dù được ghi lại, nhưng không dài dòng như tiểu thuyết mô tả. Chỉ là trong một lần hai người ngồi ăn cùng nhau, Tào Tháo ung dung bảo Lưu Bị rằng:
– Nay anh hùng trong thiên hạ, duy có sứ quân và Tháo thôi, bọn người như Bản Sơ, chẳng đáng tính đến vậy!
Lưu Bị đang ăn, giật mình đánh rơi cả thìa đũa; đúng lúc có tiếng sấm vang, ông liền nhanh trí đáp:
– Thánh nhân nói “Sấm vang gió giật người biến sắc”, đích xác là thế vậy.
Tào Tháo thấy thế cũng không truy hỏi gì thêm, ngoài ra cũng không cho rằng Lưu Bị có âm mưu gì, vì thực ra ở Hứa Xương ông không có thế lực nào, cũng khó có thể gây sóng gió.
Năm 199, Viên Thiệu ở phía bắc đánh bại Công Tôn Toản, làm chủ hoàn toàn vùng Hà Bắc. Ở phía nam, Viên Thuật xưng đế rồi cũng bị vây đánh, lâm vào cảnh nguy ngập, bèn gửi thư ngỏ ý muốn nhường ngôi Hoàng đế cho Viên Thiệu. Lưu Bị lúc ấy không muốn bị khống chế mãi ở Hứa Xương, bèn xin được cầm quân đi diệt Viên Thuật. Tào Tháo đồng ý, bèn cử Lưu Bị cùng tướng Chu Linh đem quân chặn đánh Viên Thuật. Viên Thuật yếu thế, bị Lưu Bị đánh bại, lại phải rút chạy rồi cuối cùng ốm chết.
Đầu năm 200, mưu kế của nhóm người Đổng Thừa bị lộ, Tào Tháo bèn giết cả ba họ tất cả những quan lại đồng mưu. Lưu Bị nghe tin, biết việc đã lộ, bèn không dẫn quân về nữa mà quay sang Từ Châu, dùng mưu giết Xa Trụ chiếm lại vùng này. Ông cử Quan Vũ ở lại trấn thủ Hạ Bi, còn mình đem quân ra đóng ở Tiểu Bái, ra sức chiêu binh mãi mã để chuẩn bị chống quân Tào. Mặt khác, ông cũng phái sứ giả đến Hà Bắc, mong cùng Viên Thiệu liên minh để đánh Tào Tháo. Tào Tháo nghe tin, bèn cử hai tướng Vương Trung và Lưu Đại đem quân tới đánh. Lưu Bị đánh thắng cả hai người, thả cho về và lên tiếng thách thức: “Sai trăm kẻ như bọn mày đến, không làm gì được ta; Tào Tháo tự đến, cũng chưa biết thế nào đâu!”
Lưu Đại, Vương Trung thua trận chạy về Quan Độ báo tin. Bấy giờ trên Hà Bắc, Viên Thiệu đang rục rịch chuẩn bị đại quân nam tiến. Thế nhưng Tào Tháo nhận định rằng bản tính Viên Thiệu hay trù trừ, thiếu quyết đoán nên dù lực lượng mạnh thì cũng chưa cần lo lắm. Trong khi đó, Lưu Bị tuy ít quân nhưng quyết đoán, hành động nhanh, cần phải diệt trừ. Vì thế, Tào Tháo lập tức đem quân đánh gấp tới Từ Châu. Quân Lưu Bị yếu thế không chống nổi, thua tan tác, ông phải bỏ Tiểu Bái chạy lên Hà Bắc với Viên Thiệu, Trương Phi thì phải chạy về Nhữ Nam, Quan Vũ trấn thủ thành Hạ Bi không địch nổi, cũng phải đầu hàng quân Tào.
Lưu Bị chạy sang Thanh Châu, Thứ sử Thanh Châu Viên Đàm nhớ tới hậu ý trước đây của ông, bèn dẫn quân mã ra nghênh đón. Sau đó Viên Đàm tiến cử ông tới chỗ Viên Thiệu ở Ký châu. Viên Thiệu phái đại tướng mang quân mã tới đón ông lên Nghiệp Thành. Khi Lưu Bị tới nơi, Viên Thiệu đích thân ra ngoài hơn 20 dặm đón tiếp. Sở dĩ cả Tào Tháo và Viên Thiệu đều đối đãi Lưu Bị rất hậu dù đều từng xung đột là do Lưu Bị khá có danh tiếng, lại là người trong hoàng thất. Nếu có thể thu phục được ông thì đó sẽ là bàn đạp để thu phục nhân tâm trong thiên hạ theo về.
Lưu Bị ở lại Nghiệp Thành độ hơn một tháng, nhiều thủ hạ của ông biết tin cũng theo về. Trong đó có cả Triệu Vân vốn là tướng cũ của Công Tôn Toản, nhưng mến phục Lưu Bị đã lâu, nay biết tin vội tìm đến. Lưu Bị và Triệu Vân rất thân thiết, hai người thậm chí còn ngủ chung giường. Ông cũng ngầm lệnh cho Triệu Vân chiêu tập binh mã được vài trăm người, việc này Viên Thiệu không hề hay biết.
Viên Thiệu sau đó ra quân đánh Tào Tháo, tấn công thành Bạch Mã và bến Diên Tân. Tào Tháo biết tin, bèn đem quân giải vây Bạch Mã. Quan Vũ ra trận giết chết mãnh tướng Nhan Lương của Viên Thiệu, giải vây thành Bạch Mã. Sau đó, quân Tào tiếp tục đi men theo Hoàng Hà về phía tây đến cứu Diên Tân. Lưu Bị cùng Văn Xú theo Viên Thiệu mang quân đuổi theo, nhưng lại bị Tào Tháo đánh bại một trận nữa tại đây, Văn Xú tử trận. Vì lực lượng ít hơn nên sau đó Tào Tháo phải lui quân về phía nam sông Tế, tức là bến Quan Độ đóng đồn, còn Viên Thiệu đóng lại ở Diên Tân. Hai bên sau đó bắt đầu giằng co nhau tại Quan Độ. Viên Thiệu tuy đông quân hơn, nhưng vẫn không xuyên phá được phòng tuyến của quân Tào.
Thấy tình hình bế tắc, Lưu Bị bèn hiến kế đánh úp lực lượng Tào Tháo. Ông xin được tới Nhữ Nam nhằm liên kết với tướng Khăn Vàng ở đó là Lưu Tích rồi tấn công Hứa Xương. Viên Thiệu bằng lòng, giao cho Lưu Bị một toán quân. Lưu Bị lập tức khởi hành lên đường. Ông cùng Triệu Vân đến Nhữ Nam liên kết với Lưu Tích, đem quân đánh phá các vùng phía nam Hứa Xương, dân chúng nhiều nơi hưởng ứng. Tào Tháo ở Quan Độ nghe tin rất lo, bèn sai Tào Nhân đem kỵ binh gấp rút tới đánh. Quân Lưu Bị không địch nổi, thua trận, ông lại phải rút về phía bắc với Viên Thiệu.
Chiến sự tại Quan Độ kéo dài nhiều tháng liên tục, bất phân thắng bại. Lưu Bị biết tin Quan Vũ đang ở bên Tào Tháo; đồng thời nhận thấy Viên Thiệu có binh lực mạnh mẽ nhưng thiếu quả quyết, đoán biết người này không thể làm nên việc lớn nên quyết định tìm cách thoát đi để tự xây dựng lực lượng. Ông xin đi về phía nam lần nữa để tới Kinh Châu thuyết phục Lưu Biểu đem quân đánh úp Hứa Xương. Tuy vậy, Viên Thiệu vốn không tin Lưu Biểu đủ nhiệt tình và có gan ra quân nên chưa đồng ý. Vừa lúc ấy thì có tướng Khăn Vàng là Cung Đô ở Nhữ Nam sai người tới liên lạc với Viên Thiệu, đề nghị liên minh cùng chống Tào. Viên Thiệu bèn sai Lưu Bị và Triệu Vân lại cùng đi Nhữ Nam. Hai người lại đi Nhữ Nam lần nữa, cùng với Cung Đô tập hợp được vài nghìn quân. Quan Vũ nghe tin Lưu Bị rời khỏi chỗ Viên Thiệu, cũng rời khỏi quân ngũ Tào Tháo ở Quan Độ chạy về phía nam tìm đến chỗ ông. Trương Phi từ Cổ Thành cũng mang quân tới hội. Tào Tháo sai tướng là Thái Dương đem quân tới đánh, nhưng thua trận, Thái Dương bị giết chết.
Ít lâu sau, Tào Tháo đại phá quân Hà Bắc tại Quan Độ, chôn sống cả bảy vạn hàng binh, Viên Thiệu chỉ mang theo được 800 kỵ binh vượt Hoàng Hà chạy thoát. Đến năm 201, Tào Tháo đánh thắng Viên Thiệu một trận lớn nữa ở Thương Đình. Sau hai thất bại nặng nề, Viên Thiệu đổ bệnh, lực lượng suy yếu trầm trọng. Tào Tháo bấy giờ mới yên tâm để xua quân nam tiến đánh Lưu Bị. Tháng 8 năm 201, Tào Tháo từ Hứa Xương đem quân tấn công Nhữ Nam. Quân của Cung Đô và Lưu Bị vốn ô hợp, nghe tin đại quân Tào Tháo kéo đến vội vã bỏ chạy tan tác. Lưu Bị biết mình không thể đối địch được với Tào Tháo, bèn bỏ luôn Nhữ Nam chạy về phía nam, đến Kinh Châu xin nương nhờ Lưu Biểu.
Lưu Biểu nghe tin, cũng tỏ ra trọng thị, đích thân ra ngoài thành Tương Dương đón tiếp. Ban đầu, Lưu Biểu đối đãi với ông rất hậu, nhưng sau đó Lưu Biểu nhận ra chí lớn của Lưu Bị, mà hào kiệt ở Kinh Châu cũng nhiều người theo về với Lưu Bị nên tỏ ra ngờ vực, cảnh giác với ông. Lưu Biểu không muốn để Lưu Bị ở lại Tương Dương, bèn cử ông đem quân ra đóng ở huyện Tân Dã, là cửa ngõ của Kinh Châu với phía bắc, rất gần Hứa Xương.
Trong khi Tào Tháo tiếp tục giao tranh với họ Viên ở phía bắc thì vào khoảng năm 204, Lưu Biểu nghe theo lời đề nghị của Lưu Bị mà cử ông đem quân từ Tân Dã đánh lên phía bắc quấy phá. Lưu Bị đem quân đi qua Nam Dương và Bác Vọng, sau đó đến huyện Diệp ở tây nam Hứa Xương. Nơi ấy do các tướng quân Tào trấn thủ là Hạ Hầu Đôn, Vu Cấm và Lý Điển. Lưu Bị đánh huyện Diệp không được, bèn rút lui; Hạ Hầu Đôn thấy thế liền đem quân truy đuổi. Lưu Bị biết thế, bèn đặt phục binh ở gò Bác Vọng, lại tự đốt doanh trại vờ bỏ trốn. Hạ Hầu Đôn không nghe theo Lý Điển khuyên, cứ muốn truy kích, cuối cùng trúng phục binh thua trận phải bỏ chạy. Tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” mô tả trận Bác Vọng xảy ra năm 208 khi Tào Tháo nam hạ đánh Kinh Châu, và gán công của trận này cho Gia Cát Lượng. Kỳ thực, trận này diễn ra từ năm 204, trước khi Tào Tháo đánh Nghiệp Thành và hoàn toàn là do mưu của Lưu Bị, vì mãi đến năm 207 Gia Cát Lượng mới theo về với ông.
Trong vài năm tiếp theo, Lưu Bị ở Kinh Châu ra sức phát triển lực lượng. Đầu năm 207, nhân Tào Tháo đem quân bắc chinh đánh Ô Hoàn, Lưu Bị khuyên Lưu Biểu xuất quân đánh Hứa Xương, nhưng không được. Sau này Tào Tháo thắng trận trở về, Lưu Biểu tỏ ra ân hận vì không nghe theo lời ông. Cũng trong năm này, có danh sĩ là Từ Thứ đến Tân Dã theo phò tá Lưu Bị, đồng thời tiến cử Gia Cát Lượng cho ông. Trước đó, Lưu Bị cũng từng nói chuyện với danh sĩ Kinh Châu là Tư Mã Huy, cũng đã nghe đến Gia Cát Lượng. Tư Mã Huy hết sức khen ngợi Gia Cát Lượng, bảo rằng thiên hạ có hai trang tuấn kiệt là Phục long Gia Cát Lượng và Phượng sồ Bàng Thống. Lưu Bị vì thế rất mến mộ và muốn mời Gia Cát Lượng phò tá cho mình.
Về sự thật đằng sau câu chuyện “3 lần tới lều tranh” của Lưu Bị và Gia Cát Lượng, các tài liệu ghi chép có chỗ mâu thuẫn. Các sách “Ngụy lược” và “Cửu châu Xuân Thu” chép rằng chính Gia Cát Lượng tìm đến gặp và tự tiến cử mình với Lưu Bị. Trong khi đó, “Tam quốc chí” thì chép rằng Lưu Bị theo sự tiến cử của Tư Mã Huy và Từ Thứ, ông tìm đến lều tranh nhà Gia Cát để cầu Gia Cát Lượng rời núi giúp mình. Sau 3 lần tới lều tranh, Lưu Bị mới gặp được Gia Cát Lượng và sau khi trò chuyện, Khổng Minh đã nhận lời phò tá ông.
Thực ra, những ghi chép này không hẳn là mâu thuẫn, mà có thể đều thực sự xảy ra, theo trình tự là Gia Cát Lượng sớm tự tiến cử trước, nhưng chưa thực sự được Lưu Bị coi trọng và trở về. Sau đó Lưu Bị nhận ra tài năng thực thụ của Khổng Minh, hạ mình 3 lần tới lều tranh tìm gặp. Bởi vì xét việc Lưu Bị ở Kinh Châu đã nhiều năm, nhân sĩ theo về không ít, đương nhiên ông chắc chắn phải nghe đến danh tiếng của Gia Cát Lượng. Nhưng vì lúc ấy Gia Cát Lượng mới ngoài 20 tuổi, còn rất trẻ, thật không dễ để Lưu Bị lập tức tin tưởng vào tài năng. Phải đến khi trò chuyện với Tư Mã Huy và sau đó là Từ Thứ, ông mới thực sự nhận ra giá trị của Gia Cát Lượng, nên mới câu chuyện “3 lần đến lều tranh” nổi tiếng. Ngoài ra, cũng không hẳn là Lưu Bị đến lần thứ 3 mới gặp được Gia Cát Lượng, mà 3 lần đó ông đều tiếp chuyện, dần bị tài năng của Khổng Minh thuyết phục và cuối cùng quyết tâm mời Khổng Minh phò tá. Bởi vì sau này trong “Xuất sư biểu”, Gia Cát Lượng có viết rằng “Tiên đế không chê thần thấp hèn, đem lòng chiếu cố, ba lần hạ mình đến tìm thần nơi lều cỏ, cùng bàn thế sự đương thời.” tức là chỉ ra rằng hai người đã trò chuyện nhiều lần để hiểu nhau và cuối cùng Khổng Minh quyết định nhận lời Lưu Bị rời núi.
Cũng trong những lần gặp này, Gia Cát Lượng đã vạch ra cho Lưu Bị phương hướng phát triển thế lực nổi tiếng là “Long Trung sách”. Theo đó, Lưu Bị chưa có nền tảng mạnh mẽ, đương nhiên không thể lập tức đối đầu trực tiếp với Tào Tháo để tranh giành Trung Nguyên. Ông cũng khó có thể tranh đoạt Giang Đông đã vững vàng trong tay Tôn Quyền. Vì thế, sách lược khả dĩ nhất là lấy Kinh Châu làm căn cứ, sau đó tiếp tục đoạt lấy Ích Châu ở phía tây. Song song với đó, phải hòa hảo và hợp tác với Giang Đông để ngăn chặn bước tiến của Tào Tháo, tích góp lực lượng để bắc tiến, thì mới có cơ hội trung hưng nhà Hán. “Long Trung sách” tuy có nhiều điểm chưa hoàn hảo, lại phụ thuộc nhiều vào thời cuộc, nhưng vẫn được đánh giá cao vì đó là sách lược hợp lý nhất ở thời điểm đó để giúp Lưu Bị có được một nền tảng đủ vững nhằm chia ba thiên hạ với hai lực lượng mạnh hơn ông rất nhiều là Tào Tháo và Tôn Quyền.
Đến năm 208, Tào Tháo đã diệt xong họ Viên và thu phục Liêu Đông, phía bắc coi như đã yên ổn, bèn hướng tầm mắt xuống phía nam. Mục tiêu đầu tiên của quân Tào chính là Kinh Châu, và chiến dịch này cũng mở ra giai đoạn mới cho Lưu Bị – giai đoạn ông không còn long đong lận đận khắp nơi nữa mà bắt đầu có thể củng cố vị trí và xây dựng lực lượng.
Đứng vững ở Kinh Châu
Tháng 9 năm 208, Lưu Biểu qua đời giữa lúc đại quân Tào Tháo đang áp sát Kinh Châu. Lưu Bị vẫn chưa biết tin, lại hiểu rõ rằng mình không thể đối đầu trực diện, bèn bỏ Tân Dã đến Phàn Thành rồi cấp báo về Tương Dương. Bấy giờ thủ hạ của Lưu Biểu đã cùng lập con thứ Lưu Tông kế vị. Theo lời khuyên của Sái Mạo, Khoái Việt và Phó Huấn, Lưu Tông quyết định đầu hàng Tào Tháo, nhưng không dám báo cho Lưu Bị biết. Tào Tháo sau khi tiếp nhận thư hàng, bèn thúc quân tiến vào Uyển Thành thuộc quận Nam Dương. Lúc đó Lưu Tông mới sai Tống Trung sang Phàn Thành báo cho Lưu Bị.
Nghe lệnh của Lưu Tông bắt mình phải cùng hàng Tào Tháo, Lưu Bị kinh ngạc và tức giận, quát đuổi Tống Trung. Biết mình không thể lấy lực lượng nhỏ ở Phàn Thành để chống đại quân Tào, Lưu Bị quyết định dẫn toàn bộ binh mã bỏ chạy về phía nam, trước tiên là cố gắng hợp binh với con trưởng Lưu Biểu là Lưu Kỳ ở Giang Hạ. Ông cử Quan Vũ đem khoảng một vạn thủy quân đi trước về Giang Hạ; còn lại bộ binh và các tướng khác cùng đi đến Giang Lăng là nơi chứa lương thảo và vũ khí của Kinh Châu. Hàng vạn dân Kinh Châu không muốn hàng Tào Tháo cũng xin đi theo, Lưu Bị đều đồng ý cả. Gia Cát Lượng khi ấy có khuyên Lưu Bị nên bất thần đánh úp Tương Dương, nhưng ông từ chối. Khi đi qua Tương Dương, nhiều quan lại và dân chúng cũng sợ bị Tào Tháo tàn sát nên bỏ Lưu Tông theo Lưu Bị, vì vậy số người đi theo ông về phía nam lên tới hơn 10 vạn người với hàng ngàn cỗ xe.
Tào Tháo sau khi tới Tương Dương tiếp nhận Lưu Tông đầu hàng, biết tin Lưu Bị đang chạy về Giang Lăng, bèn lập tức cử Tào Thuần đem 5000 kỵ binh gấp rút đuổi theo. Trong khi đó, đoàn của Lưu Bị lẫn cả quân với dân nên đi rất chậm, mỗi ngày chỉ được khoảng 10 dặm. Lưu Bị phải bố trí lại lực lượng, sai Trương Phi mang 2000 quân chặn hậu, Triệu Vân dẫn vài trăm quân hộ vệ gia quyến; còn ông cùng Gia Cát Lượng và Từ Thứ dẫn quân chủ lực bảo vệ dân tị nạn. Có người khuyên ông đi trước tới Giang Lăng, nhưng Lưu Bị không chịu, bảo rằng: “Muốn thành đại sự tất phải lấy nhân tâm làm gốc, nay người đi theo ta, ta sao nỡ bỏ được!”
Khi Lưu Bị tới Trường Bản thuộc huyện Đương Dương thì kỵ binh quân Tào đuổi kịp. Quân chặn hậu của Trương Phi đánh không nổi kỵ binh tinh nhuệ của Tào Tháo, tan vỡ cả. Kỵ binh quân Tào sau đó đánh thốc lên vào chủ quân Lưu Bị và dân chúng. Chủ quân Lưu Bị tuy đông hơn đội kỵ binh quân Tào, nhưng phải dàn trải ra để bảo vệ dân chúng nên không kịp bày trận đón đánh, bị công kích dữ dội nên tan vỡ. Lưu Bị thất bại nặng nề, cùng Gia Cát Lượng, Từ Thứ, Trương Phi và mấy chục kỵ binh rút chạy, buộc phải bỏ lại toàn bộ quân trang nặng, gia quyến và dân chúng. Quân dân Lưu Bị thua chạy tan tác mỗi người một nơi. Triệu Vân trong lúc hỗn loạn lạc mất, nhiều người nói Triệu Vân đã bỏ sang hàng Tào nhưng Lưu Bị không tin. Ông sai Trương Phi mang 20 kỵ binh đi chặn hậu, ngăn cản quân Tào. Quả nhiên sau đó Triệu Vân đột phá vòng vây, cứu được Cam phu nhân và con Lưu Bị là Lưu Thiện về. Tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” mô tả rằng Triệu Vân một mình một ngựa đột phá quân Tào, giết hơn 50 vị tướng lĩnh, cứu được Lưu Thiện về. Tuy nhiên khi nhận con, Lưu Bị ném Lưu Thiện xuống đất mà bảo rằng: “Vì mày mà ta suýt mất một viên đại tướng!”. Chi tiết hư cấu này được tô vẽ thêm để chứng tỏ sự yêu mến và tín nhiệm của Lưu Bị với Triệu Vân, nhưng vô hình trung nó lại khiến Lưu Bị hiện lên vẻ giả nhân giả nghĩa. Dĩ nhiên trong thực tế không có chuyện này, mà Lưu Bị còn rất cảm kích vì Triệu Vân cứu được vợ con ông trở về an toàn.
Trương Phi ở lại chặn hậu, một mình cầm kích đứng trên cầu, quân Tào đuổi đến nơi không ai dám lên. Nhờ thế mà Lưu Bị thoát được khỏi vòng vây truy kích của quân Tào. Khi chủ quân Tào đến nơi, bỏ không truy đuổi nữa mà chuyển sang đánh Giang Lăng. Lưu Bị đành phải đổi hướng, sang phía đông hội quân với Quan Vũ và Lưu Kỳ ở Hạ Khẩu. Thất bại tại Đương Dương khiến Lưu Bị tổn thất nặng, mất nhiều người và quân tư trang. Trong đó, đặc biệt đáng tiếc là trường hợp của Từ Thứ khi mẹ ông bị quân Tào bắt được, Từ Thứ buộc phải rời quân Lưu Bị theo về với Tào Tháo.
Trước đó, phía Giang Đông nghe tin Tào Tháo nam hạ, đã cử sứ giả Lỗ Túc đến Kinh Châu, lấy cớ viếng tang Lưu Biểu để dò xét. Lỗ Túc còn chưa đến nơi đã nghe tin Kinh Châu đầu hàng, Lưu Bị chạy tới Giang Lăng nên lập tức đổi hướng. Khi đến Hạ Khẩu thì vừa hay gặp đoàn của Lưu Bị. Hai bên bàn bạc, cuối cùng đi tới quyết định liên minh cùng chống Tào Tháo. Lưu Bị bèn cử Gia Cát Lượng làm sứ giả sang Giang Đông để thành lập liên minh với Tôn Quyền. Phía Giang Đông tranh cãi khá quyết liệt xem nên đánh hay hàng Tào. Tôn Quyền có ý muốn đánh, nhưng vẫn lo ngại Tào Tháo quân đông thế mạnh. Tuy nhiên, sau khi nghe Gia Cát Lượng và Chu Du phân tích rõ thực lực và bất lợi của Tào Tháo, Tôn Quyền mới quyết tâm thành lập liên minh với Lưu Bị; cử Chu Du, Trình Phổ và Lỗ Túc đem 3 vạn thủy quân ra trận.
Trong lúc Gia Cát Lượng ở Sài Tang bàn chuyện thành lập liên minh thì Lưu Bị lại phải đối mặt với nguy cơ mới. Tào Tháo sau khi sắp đặt xong quân nhu ở Giang Lăng bèn trở lại truy kích Lưu Bị. Theo đề nghị của Lỗ Túc, Lưu Bị mang quân từ Hạ Khẩu về Phàn Khẩu để hội với Chu Du. Quân Tào ngày càng áp sát khiến Lưu Bị lo lắng, ngày ngày sai người ra giữ bến thuyền. Mấy ngày sau, viện binh của Chu Du đến nơi, Chu Du mời Lưu Bị sang doanh trại gặp mặt. Quan Vũ và Trương Phi lo cho ông gặp bất trắc khi một mình đến trại Chu Du, nhưng ông quả quyết phải tự mình đi gặp để kết giao đồng minh chống Tào. Vì vậy, ông một mình đi thuyền sang gặp Chu Du. Các sử gia đánh giá rất cao hành động dũng cảm này của Lưu Bị và khẳng định rằng chính La Quán Trung đã mượn hành động này của Lưu Bị làm mẫu để hư cấu việc Quan Vũ “một đao tới hội” với Lỗ Túc sau này.
Lưu Bị đã giao chiến nhiều lần với quân Tào, biết Tào Tháo nhiều quân nên cũng rất lo lắng. Khi biết Chu Du chỉ có 3 vạn quân, Lưu Bị bày tỏ sự lo ngại nhưng Chu Du trấn an ông, quả quyết rằng như thế là đủ dùng. Liên minh hình thành, Chu Du đứng ra gánh vác trách nhiệm chính đương đầu với Tào Tháo. Tháng 12 năm 208, Chu Du dùng kế trá hàng kết hợp với hỏa công, đại phá thủy trại quân Tào ở Xích Bích và Ô Lâm. Hơn 20 vạn đại quân nam hạ của Tào Tháo hoặc chết, hoặc thất tán hết. Trong khi quân Giang Đông làm chủ lực tấn công thủy trại quân Tào thì quân Lưu Bị đảm nhận việc phối hợp tấn công, truy kích bại binh. Tào Tháo thua to, vất vả mãi mới chạy thoát được đến Nam Quận. Nhận thấy lực lượng của mình không thể nam hạ được nữa, Tào Tháo bèn rút quân về bắc, để Tào Nhân, Từ Hoảng ở lại trấn thủ Giang Lăng và Nhạc Tiến trấn thủ Tương Dương.
Sau khi thắng trận Xích Bích, cả Tôn Quyền và Lưu Bị đều bắt đầu chiến dịch đánh chiếm các thành trì thuộc Kinh Châu mà quân Tào chưa kiểm soát được. Chu Du đem quân đánh Giang Lăng do Tào Nhân trấn thủ. Hai bên ác chiến hơn một năm liền, cuối cùng Tào Nhân rút lui về Tương Dương. Tôn Quyền chiếm được Giang Lăng và mấy huyện phụ cận, bèn phong Chu Du là Thái thú Nam Quận. Trong thời gian đó, Lưu Bị cũng dâng biểu tiến cử Lưu Kỳ làm Thứ sử Kinh Châu với danh nghĩa kế tục Lưu Biểu. Sau đó ông chia quân đi đánh chiếm được 4 quận Kinh Châu phía nam là Vũ Lăng, Linh Lăng, Quế Dương và Trường Sa. Địa bàn của ông khi đó có 4 quận rưỡi (tính cả nửa quận Giang Hạ của Lưu Kỳ), trị sở đặt tại thành Công An.
Thế lực của Lưu Bị mạnh lên, tuy nhiên 4 quận phía nam mà ông nắm giữ lại cũng là 4 quận nghèo nhất, không có vai trò chiến lược trong việc thực thi “Long Trung sách” của Gia Cát Lượng. Do vậy, ông bắt đầu tính đến việc tiếp cận các địa bàn ở bắc Kinh Châu. Cũng trong năm 209, Lưu Kỳ bệnh mất, Lưu Bị bèn tự lập làm Thứ sử Kinh Châu. Ít lâu sau, vợ ông là Cam phu nhân cũng qua đời; và để thắt chặt liên minh, Tôn Quyền gả em gái cho ông. Sau cuộc hôn nhân này, Lưu Bị dâng biểu tiến cử Tôn Quyền làm Hành Xa kỵ tướng quân, kiêm Thứ sử Từ Châu. Theo lời khuyên của Gia Cát Lượng, ông đích thân sang Ngô quận gặp Tôn Quyền để đàm phán nhằm cai quản vùng Giang Lăng làm bàn đạp phát triển thế lực. Hai bên gặp nhau tại Kinh Khẩu, ông đề nghị phía Giang Đông cho mượn Giang Lăng thuộc Nam Quận để cùng chống Tào.
Chu Du nghe tin, bèn viết thư cho Tôn Quyền cực lực phản đối việc này. Tôn Quyền rất coi trọng lời khuyên của Chu Du, bèn khước từ lời thỉnh cầu của Lưu Bị. Thấy vậy, Lưu Bị trở về thành Công An, lệnh cho Quan Vũ đóng quân đến gần Giang Lăng gây áp lực, buộc Chu Du phải ngày đêm lo phòng thủ dù đang dưỡng bệnh. Ít lâu sau, Chu Du qua đời, Tôn Quyền liền phong Trình Phổ làm Thái thú Nam Quận ra đóng ở Giang Lăng, còn Lỗ Túc thì nối Chu Du làm Đô đốc, chỉ huy binh mã Giang Đông.
Lưu Bị một lần nữa thương lượng với Tôn Quyền về việc xin mượn Giang Lăng. Cuối cùng, Tôn Quyền nghe theo lời khuyên của Lỗ Túc là mượn sức Lưu Bị để đỡ gánh nặng phòng thủ phía tây, đồng ý để Lưu Bị mượn huyện Giang Lăng thuộc Nam Quận. Để đổi lại, Lưu Bị giao cho Tôn Quyền nửa quận Giang Hạ ông vẫn còn nắm trong tay. Địa bàn của Lưu Bị nhờ thế có đường mở rộng lên phía bắc. Ông cắt mấy huyện phía tây nam quận lập ra quận Nghi Đô, cho Trương Phi làm Thái thú. Ít lâu sau, ông lại phong cho Quan Vũ là Thái thú Tương Dương, đóng đồn ở Giang Bắc, đổi Trương Phi về làm Thái thú Nam Quận. Trong giai đoạn phát triển lực lượng này ở Kinh Châu, Lưu Bị cũng thu nạp thêm nhiều người tài giỏi, nổi bật có Tưởng Uyển, Mã Lương, Mã Tắc, Trần Chấn và đặc biệt là Bàng Thống.
Như vậy là vào đầu năm 211, hình thế ở Kinh Châu phân chia như sau: Lưu Bị có trong tay các quận Vũ Lăng, Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa, một nửa Nam Quận. Ông cắt một số huyện để tạo thành một quận mới là quận Nghi Đô. Tôn Quyền nắm được nửa quận Giang Hạ. Tào Tháo nắm được nửa quận Giang Hạ, quận Nam Dương, một nửa Nam Quận. Ông cũng cắt một số huyện thuộc Nam Dương tạo thành một quận mới là Nam Hương.
Lưu Bị coi như đã vững chân ở Kinh Châu, có không gian và địa bàn phát triển. Do đó, ông bắt đầu hướng tầm mắt sang mục tiêu tiếp theo trong “Long Trung sách” của Gia Cát Lượng: đoạt lấy Ích Châu.
Đoạt lấy Ích Châu
Với cả Lưu Bị lẫn Tôn Quyền, chiến lược phát triển của họ đều coi Ích Châu là mục tiêu cần phải lấy. Lúc sinh thời, Chu Du từng hiến kế rằng đích thân mình sẽ mượn đường Lưu Bị để vào đánh đất Thục, sau đó diệt Trương Lỗ ở Hán Trung, liên kết với Mã Siêu ở Lương Châu để cùng chống Tào Tháo. Nhiều sử gia cho rằng kế này của Chu Du bề ngoài là để chống Tào Tháo, nhưng kỳ thực còn có cả ý muốn diệt trừ Lưu Bị, thể hiện qua việc yêu cầu mượn đường để đánh Ích Châu. Lưu Bị tất nhiên không mong muốn tự mở đường dẫn quân Giang Đông vào địa bàn, liền ra sức ngăn cản Tôn Quyền dùng kế ấy. Ông nghe theo lời chủ bộ Kinh Châu là Ân Quan, gửi thư cho Tôn Quyền, đại ý nói rằng các quận của ông vừa lấy được, chưa thể lập tức điều động đại quân. Nói như thế, Đông Ngô cũng không dám vượt qua đất Kinh Châu mà đơn độc đánh Thục được. Mặt khác, Lưu Bị cũng chia quân cho cả Quan Vũ, Trương Phi với Gia Cát Lượng cùng đóng giữ những nơi hiểm yếu, có ý phòng ngừa. Tôn Quyền thấy thế, bèn tạm hoãn chưa khởi binh vội.
Việc đánh Thục hay không còn chưa quyết định xong thì Chu Du bệnh mất, Lỗ Túc nối chức Đô đốc. Sau đó diễn ra sự kiện Tôn Quyền để cho Lưu Bị mượn Giang Lăng, đổi lấy nửa quận Giang Hạ. Cuối cùng, Tôn Quyền cho lui quân về Giang Đông, chưa có ý đánh Ích Châu.
Bấy giờ Ích Châu đang do tông thất nhà Hán là Lưu Chương quản lĩnh. Tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” mô tả Lưu Chương là người ngu ngốc hèn kém, không biết nghe lời khuyên, nhưng trên thực tế, ông được đánh giá là người nhân hậu, không có đại tài, nhưng cũng không đến mức vô dụng chẳng biết quản việc. Dù vậy, tình thế ở Ích Châu của Lưu Chương cũng lắm rắc rối: phía bắc có thế lực Trương Lỗ đe dọa, và trên đó nữa là Tào Tháo; ở trong châu thì ông bị các thế lực bản địa Ích Châu chống đối. Một số quan lại như Trương Tùng, Pháp Chính và Mạnh Đạt đều không muốn phò tá ông, bèn tìm cách mời Lưu Bị vào để đoạt quyền, do họ nhận định Lưu Bị có tham vọng hơn hẳn Lưu Chương. Lưu Chương từng muốn dựa vào Tào Tháo để chống Trương Lỗ, nên khi trước lúc quân Tào nam hạ, ông từng gửi thư đầu hàng cho Tào Tháo, lại cử Trương Tùng đi sứ. Vì bị Tào Tháo coi thường khi gặp mặt, Trương Tùng trở về Thục đúng lúc vừa diễn ra trận Xích Bích, quân Tào đại bại, bèn khuyên Lưu Chương đổi thái độ với Tào Tháo. Sau đó cũng theo sự tiến cử của Trương Tùng, Lưu Chương cử Pháp Chính qua lại thành Công An gặp Lưu Bị để liên hợp chống Tào, lại sai Mạnh Đạt mang vài ngàn binh mã tới cho Lưu Bị sai khiến.
Năm 211, Tào Tháo sau khi đánh bại Mã Siêu và Hàn Toại đã sai Chung Do và Hạ Hầu Uyên chuẩn bị binh mã để tấn công Trương Lỗ. Việc này khiến Lưu Chương càng sợ hãi, ông bèn nghe theo Trương Tùng, cử Pháp Chính sang Kinh Châu mời Lưu Bị mang quân vào Tây Xuyên. Thủ hạ của Lưu Chương có chủ bộ Hoàng Quyền hết sức can ngăn, tòng sự Vương Lũy thậm chí còn tự treo ngược mình lên cổng thành, nhưng ông nhất quyết không nghe, vẫn sai Pháp Chính đem 4000 quân đi đón Lưu Bị.
Nhận được lời mời, lại được sự tán đồng của cả Gia Cát Lượng và Bàng Thống; Lưu Bị tin rằng đây là thời cơ tốt nhất để tiến vào Ích Châu. Mùa đông năm 211, Lưu Bị đem quân bắt đầu vào đất Thục. Để tránh Lưu Chương nghi ngờ, ông không mang theo quá nhiều binh mã, lại chỉ đem theo một vài tướng mới gia nhập. Lực lượng của Lưu Bị vào Thục chỉ có Bàng Thống, hai tướng Hoàng Trung – Ngụy Diên và khoảng một vạn quân. Khi vào Thục, ông giao cho Quan Vũ và Gia Cát Lượng ở lại trấn thủ Giang Lăng, Trương Phi đóng quân phòng thủ mặt sông Trường Giang, còn Triệu Vân thì trấn thủ thành Công An. Lưu Bị vào Thục rồi, theo sông Điếm Giang tới Phù Thành. Lưu Chương đích thân đem 3 vạn quân mã ra ngoài đón tiếp, hai người hội ngộ nói chuyện thân tình. Bàng Thống và Pháp Chính đều khuyên Lưu Bị mở tiệc mời Lưu Chương đến dự rồi bắt giết để nhanh chóng đoạt Ích Châu, tránh động binh đao. Tuy nhiên, Lưu Bị không nghe theo vì ông cho rằng vừa mới vào Thục, điều quan trọng là thu phục nhân tâm chứ không nên làm việc bất nghĩa như vậy.
Sau đó Lưu Chương cấp cho Lưu Bị quân sĩ cùng rất nhiều quân trang, vật tư, lại giao cả cánh quân của 2 tướng Cao Bái, Dương Hoài ở Bạch Thủy cho ông điều động, giục ông lên phía bắc đánh Trương Lỗ, còn bản thân Lưu Chương trở về Thành Đô. Lưu Bị đóng quân tại Gia Manh, chưa đánh Trương Lỗ ngay mà chỉ tập trung thu phục dân chúng bản địa, không hành động gì suốt gần một năm. Hai tướng Cao Bái và Dương Hoài ở Bạch Thủy thấy thế báo tin về Thành Đô, khiến Lưu Chương bắt đầu có ý nghi ngờ.
Đầu năm 213, Tào Tháo nam chinh đánh Tôn Quyền, phía Đông Ngô bèn gửi tin cho Lưu Bị mong cầu viện. Lưu Bị nhân đó bèn viết thư gửi cho Lưu Chương, khẩn khoản nói phải cứu đồng minh Tôn Quyền và bảo vệ Kinh Châu, xin cấp 1 vạn quân nữa. Lưu Chương nghi ngờ ông, nên giảm nửa số vật tư lương thảo đề nghị, và chỉ cho 4000 quân. Lưu Bị nhân đó kích động quân sĩ rằng Lưu Chương keo kiệt bủn xỉn, không biết công lao nhọc khốn khó của binh sĩ, sau đó truyền tin chuẩn bị nhổ trại sang đông trợ giúp Đông Ngô. Trương Tùng ở Thành Đô biết tin, lo sợ rằng ý định rước Lưu Bị thay Lưu Chương đổ vỡ, vội viết thư cho Lưu Bị đề nghị ông hãy ở lại. Bức thư đó bị anh Trương Tùng là Trương Túc biết được, bèn đi tố cáo với Lưu Chương. Lưu Chương bèn cho người bắt giết Trương Tùng, đồng thời hạ lệnh các tướng giữ quan ải không được qua lại với Lưu Bị nữa. Lưu Bị nổi giận, bèn giả vờ mời Cao Bái và Dương Hoài đến bàn việc quân rồi trách mắng, đem cả hai ra chém đầu. Sau đó, Lưu Bị thu phục hết binh mã của cả hai rồi cho quân chiếm lấy Phù Thành. Lưu Chương thấy thế, vội cử các tướng Lưu Côi, Lãnh Bao, Trương Nhiệm, Đặng Hiền đem quân chống cự. Quân Ích Châu không địch nổi, các tướng của Lưu Chương phải lui về giữ Miên Trúc.
Lưu Chương sai tướng Lý Nghiêm mang quân ra tiếp ứng. Lý Nghiêm vốn là đồng hương của Pháp Chính và Mạnh Đạt nên cũng có thiện cảm với Lưu Bị. Do sự thuyết phục của Pháp Chính và sau đó là Bàng Thống nên Lý Nghiêm đem hết binh mã quy hàng Lưu Bị, khiến quân Ích Châu càng sa sút tinh thần chiến đấu. Quân của Lưu Bị càng mạnh, ông liền chia quân ra bình định các huyện xung quanh. Các tướng của Lưu Chương là Lưu Côi, Trương Nhiệm thế cô, bèn lui về giữ Lạc Thành. Lưu Bị cho quân vây đánh, Trương Nhiệm dẫn quân ra chặn đánh quân Lưu Bị ở Nhạn Kiều nhưng thua trận và bị bắt sống. Do nhất quyết không chịu hàng nên cuối cùng Lưu Bị buộc phải đem Trương Nhiệm ra giết. Tuy vậy, tình thế của ông cũng tương đối nguy hiểm khi Lưu Chương cho quân vây đánh Gia Manh đang do tướng Hoắc Tuấn của Lưu Bị trấn thủ. Hoắc Tuấn chỉ có vài trăm binh sĩ nhưng vẫn tử thủ, thậm chí còn thừa lúc quân Ích Châu không phòng bị, đột kích đánh ra mà chém được tướng địch là Hướng Tồn. Quân Ích Châu vây Gia Manh cả năm trời mà không làm gì được, ở phía ngược lại, quân Lưu Bị vây Lạc Thành cũng chừng ấy thời gian cũng chưa hạ được. Lưu Bị bèn gửi tin cho Gia Cát Lượng, Trương Phi và Triệu Vân cùng đem quân vào đất Thục trợ chiến, chỉ để lại Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu.
Mùa hè năm 214, các cánh quân Lưu Bị đều thắng trận. Lưu Bị nghe tin Trương Phi và Gia Cát Lượng đã đánh đến phía đông và phía bắc Thành Đô, còn Triệu Vân phá được Kiện Vi, bèn cùng Bàng Thống chia đường tấn công Lạc Thành. Cuối cùng Lạc Thành cũng thất thủ, nhưng trong lúc hỗn loạn, Bàng Thống trúng tên qua đời, Lưu Bị vì thế rất thương tiếc. Các cánh quân Lưu Bị bấy giờ đã áp sát Thành Đô. Cũng trong thời điểm ấy, Mã Siêu ở Lương Châu đã bị Tào Tháo đánh bại 2 lần, phải đến Hán Trung đầu hàng Trương Lỗ. Biết Mã Siêu bất mãn với Trương Lỗ, Lưu Bị bèn sai người đến Hán Trung ngầm liên kết với Mã Siêu. Mã Siêu bèn bỏ trốn sang đất Thục theo về Lưu Bị. Lưu Bị sau đó bảo Pháp Chính gửi thư cho Lưu Chương khuyên hãy đầu hàng, nhưng Lưu Chương nhất định không chịu. Lưu Bị thấy vậy bèn cho quân vây Thành Đô, các tướng khác của ông cũng dần đem binh tới hội họp. Ông lại cho Mã Siêu đem quân đóng trại ở phía bắc thành, người trong Thành Đô thấy thế tưởng là quân Tây Lương đến, lại càng sợ hãi.
Thành Đô bị vây mấy chục ngày, Lưu Bị lại tiếp tục cử Giản Ung vào trong thành thuyết phục Lưu Chương đầu hàng. Bấy giờ trong thành còn ba vạn quân, lương thực vẫn đủ dùng một năm. Quan lại tướng lĩnh của Lưu Chương nhiều người muốn tử chiến, nhưng cuối cùng Lưu Chương lại đồng ý đầu hàng để tránh đổ máu. Ông cho mở cổng thành, ra hàng Lưu Bị. Lưu Bị cũng không làm khó Lưu Chương, cho ông sang Kinh Châu đến thành Công An, an trí ông cùng gia quyến ở đấy, lại vẫn để Lưu Chương giữ chức Chấn uy tướng quân mà triều đình phong cho khi trước. Đất Thục coi như đã được bình định xong, các tướng sĩ đều ra hàng Lưu Bị cả.
Chiếm Hán Trung và xưng vương
Lưu Bị chiếm được Ích Châu, nhưng ở Kinh Châu lại xảy ra biến cố. Tôn Quyền vốn đã tức giận chuyện Lưu Bị lừa mình để vào đất Thục khi trước, nay lại cử sứ giả đến bảo rằng Lưu Bị đã có Ích Châu, thì nên trả lại Giang Lăng cho Đông Ngô. Tuy nhiên, Lưu Bị từ chối, hẹn rằng khi nào ông lấy được Lương Châu thì sẽ trao trả lại. Tôn Quyền càng giận, lập tức sai Lã Mông đem quân tập kích, chiếm ba quận phía nam Kinh Châu của Lưu Bị là Trường Sa, Linh Lăng và Quế Dương. Lưu Bị ở Ích Châu nghe tin, vội đem 5 vạn quân tới thành Công An, chuẩn bị giao chiến.
Đúng lúc đó, có tin từ phía bắc báo về rằng Tào Tháo chuẩn bị tiến đánh Hán Trung của Trương Lỗ, Ích Châu bị uy hiếp. Lưu Bị không thể tiếp tục tranh giành với Tôn Quyền ở Kinh Châu, đành phải nhượng bộ. Ông chấp nhận để Đông Ngô làm chủ ba quận vừa bị chiếm, đổi lại thì Lưu Bị được lấy hoàn toàn Giang Lăng, chứ không còn là mượn nữa. Tôn Quyền cũng chấp nhận giảng hòa, hai bên cùng phân chia lại Kinh Châu và lấy sông Tương làm ranh giới.
Năm 215, Tào Tháo đánh bại quân Trương Lỗ, chiếm được Hán Trung, nhưng lại không tiếp tục tiến đánh xuống Ích Châu. Ông chỉ để các tướng Hạ Hầu Uyên, Trương Cáp, Từ Hoảng và Đỗ Tập ở lại trấn thủ, còn mình thì rút về Nghiệp Thành. Từ năm 216, quân Tào Tháo và quân Lưu Bị bắt đầu xung đột ở Hán Trung. Trương Cáp mang quân vượt núi Đại Ba, tiến sâu vào 2 quận Ba Đông, Ba Tây, dời vài vạn dân về Hán Trung. Khi tiến đến Đãng Cừ thì chạm trán quân Ích Châu do Trương Phi chỉ huy chặn lại. Hai bên giữ nhau 50 ngày, cuối cùng Trương Cáp bị Trương Phi đánh bại tại núi Ngõa Khẩu, phải rút chạy về Nam Trịnh. Đầu năm 218, Lưu Bị cho quân đến đóng ở ải Dương Bình, tiếp tục giao tranh với quân Tào. Quân Ích Châu đánh mấy lần không được, đều bị thua. Lưu Bị thấy thế bèn cùng Pháp Chính khởi đại quân bắc tiến. Hán Trung trù phú, giàu có, lại nằm ngay trước Ích Châu, có thể coi như yết hầu của cả vùng. Không chiếm được Hán Trung thì không thể yên tâm được, Lưu Bị quyết tâm chiếm bằng được vùng này cũng vì thế. Đại quân Lưu Bị tới nơi, chiếm được ải Dương Bình. Tào Tháo biết tin, bèn tự đem quân đến giáp chiến với Lưu Bị ở Hán Trung, đến cuối năm 218 thì đại quân đến thành Trường An.
Sang đầu năm 219, Lưu Bị thúc quân vượt qua Miện Thủy, dựa vào sườn núi Định Quân đóng quân. Hạ Hầu Uyên không biết là kế, mang toàn quân đến vây đánh, bị phục binh của tướng Hoàng Trung từ trên núi đổ xuống đánh ngang sườn. Hạ Hầu Uyên và Thứ sử Ích Châu là Triệu Ngung cùng tử trận, toàn quân bị diệt. Tào Tháo được tin, tức tốc đem đại quân từ Trường An qua hang Tà Cốc tiến đánh Lưu Bị. Quân Ích Châu giữ thế phòng thủ không ra giao chiến. Qua hơn 1 tháng khiêu chiến không đánh được trận nào, quân Tào mệt mỏi. Lưu Bị lại sai người lọt vào hàng ngũ quân Tào làm nội ứng, phao tin đồn khiến quân Tào chán nản. Tào Tháo lúc đó tuổi đã cao, sức lực không còn tráng kiện; ông liệu thế không thể thắng được Lưu Bị, đành hạ lệnh lui quân. Tào Tháo không những triệt thoái khỏi Hán Trung, mà lệnh cho các cánh quân còn lại cùng rút về. Toàn bộ vùng Hán Trung vậy là đều thuộc về Lưu Bị.
Chiếm được Hán Trung rồi, lực lượng của Lưu Bị càng lớn mạnh. Mùa hè năm 219, quần thần của ông ở Thành Đô cùng làm biểu dâng lên Hán Hiến đế, xin thiên tử phong cho Lưu Bị làm Hán Trung vương, lĩnh chức Đại tư mã. Việc này chỉ mang tính hình thức, vì Hán Hiến đế ở Hứa Xương không có thực quyền. Phía Ích Châu cũng không chờ chiếu chỉ nhà vua, tháng 8 cùng năm lập đàn tràng ở Miện Dương, Lưu Bị tự xưng là Hán Trung vương, đội mũ miện và cho đúc ấn tín. Sở dĩ Lưu Bị cho lập đàn tràng xưng vương ở Miện Dương mà không phải ở Thành Đô là vì nơi này thuộc Hán Trung mới chiếm được. Hán Trung khi xưa cũng là nơi mà Hán Cao tổ Lưu Bang khởi binh đông tiến đánh Hạng Vũ. Lưu Bị xưng vương ở Hán Trung, là để biểu thị ý chí kế tục nhà Hán bấy giờ đang bị Tào Tháo khống chế.
Sau khi xưng vương, Lưu Bị phong Hứa Tĩnh làm Thái phó, Pháp Chính làm Thượng thư lệnh Hộ quân tướng quân, Liêu Lập làm Thị trung, Quan Vũ là Tiền tướng quân, Trương Phi là Hữu tướng quân, Mã Siêu là Tả tướng quân và Hoàng Trung là Hậu tướng quân. Các chức vị của các nhân vật quan trọng khác như Gia Cát Lượng, Triệu Vân không được sử sách nhắc đến. Xong xuôi mọi việc, Lưu Bị trở về Thành Đô, liền sau đó phong cho Ngụy Diên làm Thái thú Hán Trung, đeo hàm Trấn viễn tướng quân. Quyết định này khiến mọi người kinh ngạc, vì ai cũng nghĩ rằng Hán Trung có vị trí quan trọng ngang ngửa Kinh Châu, nên hẳn là Lưu Bị nên giao cho Trương Phi trấn thủ mới đúng. Tuy nhiên, nghĩ kỹ lại thì quyết định này cũng có lý của nó. Trong các tướng của Lưu Bị, Mã Siêu mới về hàng, lại từng là chư hầu một phương, nên nếu để Mã Siêu trấn thủ Hán Trung thì còn phải lo ngừa phản loạn. Hoàng Trung thì đã cao tuổi, mà Trương Phi, Triệu Vân còn phải để dành lo việc phía Đông Ngô; bởi vì từ sau khi Lỗ Túc qua đời năm 217, quan hệ hai bên xấu đi rõ rệt. Vì thế, đề bạt Ngụy Diên là lựa chọn đúng đắn nhất tại thời điểm ấy.
Cũng có một vài sử gia đánh giá rằng quyết định xưng vương của Lưu Bị là hơi sớm. Lẽ ra ông nên chờ đến khi tiến vào được Trung Nguyên rồi hẵng xưng vương thì sẽ thích hợp hơn. Việc lập tức xưng vương khi có được Hán Trung mà không thỏa hiệp gì thêm với bên Đông Ngô cũng là thiếu sót, bởi vì giờ đây trên danh nghĩa, Tôn Quyền có địa vị thấp hơn hẳn Lưu Bị. Chuyện này chắc chắn khiến Tôn Quyền mếch lòng, lại thêm việc quan hệ hai bên đang dần căng thẳng hơn, rất có thể sẽ khiến Đông Ngô đề phòng và có sách lược mới nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Lưu Bị.
Và thực tế, mọi chuyện xảy ra đúng như vậy. Năm 219, Quan Vũ khởi binh tấn công Tương Dương – Phàn Thành. Ban đầu thế như chẻ tre, thắng lợi liên tiếp, đánh tan viện quân của Bàng Đức, Vu Cấm và đẩy Tào Nhân vào cảnh khốn đốn; thậm chí Tào Tháo còn lo ngại đến mức muốn dời đổ. Tuy nhiên đúng thời điểm quan trọng, Tôn Quyền lại quay sang hợp tác với Tào Tháo, cử Lã Mông và Lục Tốn đem quân đánh úp, chiếm toàn bộ Kinh Châu của Lưu Bị và giết được Quan Vũ. Thế trận đảo chiều quá nhanh khiến Lưu Bị ở Thành Đô không kịp phản ứng. Mất Kinh Châu và Quan Vũ là tổn thất lớn cho Lưu Bị. Ông vô cùng oán hận con nuôi Lưu Phong và tướng Mạnh Đạt ở Phòng Lăng đã không đáp ứng yêu cầu xuất quân trợ chiến của Quan Vũ khiến Quan Vũ phải đơn độc chiến đấu với quân Tào rồi đến quân Ngô nên ra lệnh triệu tập 2 người. Mạnh Đạt vì thế sợ hãi đem quân hàng Tào Tháo, hai tướng khác là Thân Đam và Thân Nghi cũng quay sang hàng Tào. Lưu Phong không chịu theo, bị quân Tào vây đánh, phải bỏ chạy về Thành Đô. Lưu Phong sau đó bị chém đầu. Lưu Bị vì mất Kinh Châu nên nóng lòng muốn khởi binh đánh Đông Ngô báo thù và chiếm lại các vùng đất đã mất, thế nhưng còn chưa kịp chuẩn bị thì lại có chuyện xảy ra.
Năm 220, Tào Tháo qua đời tại Lạc Dương, con trai ông là Tào Phi kế vị ngôi Ngụy vương. Đến cuối năm, Tào Phi ép Hán Hiến đế nhường ngôi, lập ra nhà Ngụy. Hán Hiến đế bị truất ngôi nhưng không bị hại, ông được Tào Phi phong làm Sơn Dương công. Đối mặt với sự kiện này, phía Lưu Bị ở Thành Đô cũng lập tức hành động. Với ý chí kế tục nhà Hán, Lưu Bị cũng lên ngôi Hoàng đế, quốc hiệu vẫn là Hán, nhưng vì chỉ có đất Thục, nên thường được sử gọi là Thục Hán.
Lập Thục Hán, đánh Đông Ngô
Cuối năm 220, Tào Phi soán ngôi nhà Hán thì đến tháng 6 năm 221, tin tức truyền tới Thành Đô. Có tin đồn là Tào Phi đã giết Hán Hiến đế rồi, nên Lưu Bị cho phát tang, truy thụy hiệu cho ông là Hiếu Mẫn Hoàng đế. Quần thần đều đề nghị ông nên kế vị để duy trì nhà Hán. Ông còn đang do dự thì lại có tin rằng Tôn Quyền đã dâng biểu xưng thần với Tào Phi và được phong làm Ngô vương. Lưu Bị rất tức giận, muốn lập tức khởi binh đánh Đông Ngô. Tuy nhiên, theo lời khuyên của Gia Cát Lượng, ông tạm gác việc đánh Ngô và làm lễ lên ngôi Hoàng đế. Đại lễ được tiến hành ở phía nam núi Vũ Đam thuộc Thành Đô. Lưu Bị lên ngôi, vẫn giữ quốc hiệu là Hán, đặt niên hiệu Chương Võ, phong cho Gia Cát Lượng làm Thừa tướng.
Về phía Đông Ngô thì sau khi đánh chiếm được toàn bộ các quận Kinh Châu của Lưu Bị, liền chủ động xưng thần với Tào Tháo nên được thừa nhận là Thứ sử Kinh Châu. Tôn Quyền khi ấy cũng bắt được cả Lưu Chương đang ở thành Công An, bèn lại phong cho ông hư chức là Thứ sử Ích Châu. Như vậy là Tôn Quyền không thừa nhận địa vị của Lưu Bị ở cả Kinh Châu và Ích Châu. Hành động này đánh dấu bước chuyển mới trong quan hệ giữa ba thế lực, bởi vì nếu trước kia là Lưu – Tôn liên hiệp kháng Tào thì bây giờ trở thành Tào – Tôn bắt tay cô lập Lưu. Điều này khiến Lưu Bị rất tức giận và càng củng cố quyết tâm đánh Ngô của ông. Quần thần nhiều người can ngăn, kể cả tướng lĩnh thân cận với Lưu Bị là Triệu Vân cũng khuyên ông nên tập trung đánh Ngụy trước, thì Ngô ắt tự thuần phục. Theo ý kiến của Triệu Vân thì Ngụy mới lập, Tào Phi soán Hán, lòng người nhiều nơi chưa phục hẳn, nên chớp thời cơ khởi binh đánh vùng Quan Trung, các thế lực chống đối họ Tào ở vùng Quan Đông tất sẽ hưởng ứng. Nếu như cố chấp đánh Ngô trước, lại chẳng phải kế hay. Tuy nhiên, ý Lưu Bị đã quyết, ông không nghe ai can gián, vẫn cứ sắp sửa binh mã sang đánh Tôn Quyền. Nhưng còn chưa kịp ra quân thì ông lại tổn thất lực lượng khi Trương Phi bị thủ hạ dưới quyền là Phạm Cương, Trương Đạt ám hại, thủ cấp bị đem sang Ngô.
Mùa thu năm 221, Lưu Bị để Thừa tướng Gia Cát Lượng ở lại giữ Thành Đô, còn ông tự suất lĩnh 4 vạn quân sang đông đánh Ngô. Tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” phóng đại con số, viết rằng Lưu Bị đem hết quân mã trong Thục đi đánh Đông Ngô, tổng cộng hơn 70 vạn người. Con số này chẳng hề đáng tin, vì Ích Châu thưa dân, chỉ có chưa đầy 1 triệu người, quân mã của Lưu Bị cũng không quá 10 vạn, lại còn phải để lại trấn giữ các nơi hiểm yếu và phòng thủ nước Ngụy. Lần xuất chinh này, ông cũng không đem theo Mã Siêu và Ngụy Diên mà để họ trấn thủ Hán Trung, càng chứng tỏ rằng lực lượng của Lưu Bị không quá nhiều. Do đó, con số khoảng 4 vạn mà nhiều tài liệu nghiên cứu đưa ra là đáng tin. Bên cạnh đó, lần đông chinh này Lưu Bị cũng không có mưu sĩ đại tài nào vì Bàng Thống, Pháp Chính đều đã mất, chỉ còn Gia Cát Lượng thì phải ở lại Thành Đô giám quốc. Đây cũng là một bất lợi lớn với quân Thục Hán.
Vào khoảng tháng 8 năm 221, quân Lưu Bị bắt đầu tiến vào địa phận Kinh Châu do Đông Ngô nắm giữ. Trong số các tướng đi theo xuất chinh nổi bật có Mã Lương, Hoàng Quyền, Ngô Ban, Phùng Tập và Triệu Vân. Lưu Bị để Triệu Vân nắm giữ hậu quân, ở lại làm tiếp viện, cử Ngô Ban làm tiên phong. Tôn Quyền thấy quân Thục Hán không nhiều nhưng thế mạnh, bèn cử Thái thú Nam Quận là Gia Cát Cẩn làm sứ sang cầu hòa. Bên phía Đông Ngô bấy giờ thì sau khi Lỗ Túc qua đời, chỉ còn Gia Cát Cẩn có quan hệ tương đối thân thiết với Lưu Bị. Tuy nhiên, Lưu Bị không chấp nhận cầu hòa, quyết tâm đem quân đông tiến. Lo sợ nước Ngụy có thể thừa cơ tiến đánh, Tôn Quyền bèn cử sứ giả đến Lạc Dương dâng biểu xưng thần với Tào Phi, lại trao trả tướng Vu Cấm bị Quan Vũ bắt từ trước. Thị trung Lưu Diệp khuyên rằng vì Tôn Quyền vô cớ xin hàng, vậy tức là chắc chắn chuẩn bị giao tranh với Thục. Hai nước vốn đã nhỏ yếu hơn mà lại tự đánh nhau, là cơ hội trời cho để Ngụy phát binh nam hạ. Lưu Diệp đề nghị Tào Phi nên lập tức đem đại quân vượt Trường Giang đánh tập kích, Đông Ngô sẽ không thể chống cự nổi. Một khi đã diệt được Ngô, thì Thục chẳng mấy chốc cũng chịu chung số phận.
Tuy nhiên, Tào Phi cho rằng Ngụy vừa lập, không tiện động binh, vả lại Ngô đến hàng mà lại đem quân tập kích sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng. Do đó, Tào Phi quyết định cho Ngô đầu hàng, lại cử sứ phong cho Tôn Quyền làm Ngô vương. Mặt bắc tạm yên, Tôn Quyền dồn sức chống đỡ quân Thục Hán. Trận này, Tôn Quyền cũng không cử các tướng mạnh của mình như Cam Ninh, Chu Thái ra trận vì họ còn phải trấn thủ phòng tuyến phía bắc đề phòng nước Ngụy. Ông phong Lục Tốn làm Đại đô đốc, đem 5 vạn quân cự địch, cùng theo có các tướng như Chu Nhiên, Phan Chương, Tống Khiêm, Hàn Đương, Tôn Hoàn và Từ Thịnh. Đích thân Tôn Quyền cũng đem một đạo quân ra đóng ở Vũ Xương để làm tiếp viện.
Thục – Ngô giao chiến, hai tướng Ngô Ban và Phùng Tập của Lưu Bị đánh bại đạo quân Ngô của Lý Dị và Lưu A, chiếm huyện Vu và Tỷ Quy. Lục Tốn cũng phản kích, thắng được một trận nhỏ, nhưng vẫn tránh đụng độ trực tiếp với chủ quân Thục Hán. Do đó, Lục Tốn chủ động giữ thế phòng ngự, mà Lưu Bị cũng tạm thời chưa tiến quân vội. Đầu năm 222, quân Thục Hán tiến đến Di Lăng. Hoàng Quyền khuyên Lưu Bị đề phòng thủy quân Ngô tinh nhuệ, ông xin làm tiên phong, còn Lưu Bị lui về giữ hậu quân. Tuy nhiên, Lưu Bị không nghe theo, ông cử Hoàng Quyền làm Trấn bắc tướng quân, đem binh mã đề phòng nước Ngụy, còn bản thân mình thì chỉ huy đại quân đóng ở Di Lăng. Lục Tốn thấy quân Thục đang hăng hái, quyết định không đối đầu để tránh thương vong mà hạ lệnh cho tiền quân vứt bỏ Di Lăng, rút về Hào Đình củng cố phòng tuyến, tự mình đặt đại bản doanh ở Di Đạo phía nam Trường Giang cố thủ.
Lưu Bị chiếm được Di Lăng, liền lập liên túc mấy chục trại bằng gỗ giữa rừng. Di Lăng ở cách rất xa căn cứ quân Thục Hán ở Tỷ Quy, là điều đại kỵ trong nhà binh. Tuy vậy, có thể Lưu Bị tin rằng mình có thể nhanh chóng đánh hạ chủ quân Lục Tốn nên mới mạo hiểm như vậy. Sau khi cho quân lập trại, ông liền chia quân làm 2 đường. Cánh trái do Phùng Tập chỉ huy, bày trận ở phía bắc Di Đạo, cánh phải do Ngô Ban chỉ huy đánh thẳng vào trại chính của Lục Tốn.
Lục Tốn thấy động tĩnh quân Thục như vậy, cũng lệnh cho Tôn Hoàn cầm quân trấn thủ Di Đạo. Ngô Ban cho quân đánh nhiều ngày mà không phá được trại. Thấy Lưu Bị lập trại ở thế nguy hiểm như vậy, các tướng Ngô đều khuyên nên lập tức phản kích. Tuy nhiên, Lục Tốn cho rằng bây giờ sĩ khí quân Thục Hán vẫn mạnh, đánh luôn là mạo hiểm. Nhất thiết phải tập trung phòng thủ, đợi quân địch mỏi mệt, giảm nhuệ khí, vận chuyển lương thảo quân nhu có vấn đề thì mới đánh được.
Thục – Ngô giằng co với nhau mấy tháng liền, Lưu Bị khiêu chiến nhiều lần nhưng Lục Tốn nhất định không chịu ra đánh, ông cũng không có cách nào xuyên phá. Lâu ngày không hạ được Di Đạo và không phá được phòng tuyến của Lục Tốn, Lưu Bị lo lắng vì quân Thục đã vào sâu đất địch, tuy xuôi dòng Trường Giang nhưng phải vận chuyển lương thực đường xa rất tốn kém. Ông bèn hạ lệnh cho Ngô Ban siết chặt vòng vây ở thành Di Đạo, tự mình dẫn quân vượt bờ bắc, chia làm 2 cánh đánh vào hậu phương của Lục Tốn, lại cho 8000 binh sĩ mai phục để chờ quân Ngô ra. Các tướng Ngô thấy quân Thục ít, định ra tấn công ngay, nhưng Lục Tốn cho rằng đó chỉ là kế lừa của Lưu Bị nên một mực giữ thế thủ. Lưu Bị thấy quân Ngô không trúng kế, đành phải lệnh cho Ngô Ban trở về bờ nam. Các tướng Ngô vẫn coi thường Lục Tốn nhát gan không chịu ra quân, từ khi thấy ông dự liệu chính xác mới tỏ ra khâm phục.
Đến mùa hè năm 222, Lục Tốn thấy quân Thục đã mệt mỏi, cho rằng thời cơ đã tới, bèn gửi thư cho Tôn Quyền, khẳng định rằng chỉ trong nay mai sẽ thắng lợi. Thời điểm đó, trong vùng có gió đông nam thổi mạnh, Lục Tốn quyết định dùng hỏa công để phá quân Thục. Ông cử Chu Nhiên theo đường thủy ngược dòng đánh lên vào đại bản doanh của Lưu Bị ở Hào Đình, trên thuyền dùng nhiều cỏ khô và củi lửa để đốt; Hàn Đương và Phan Chương đi đường vòng bên phải đến Trác Hương để chặn đường rút của quân tiên phong Thục Hán; Từ Thịnh và Tống Khiêm đi giải vây cho Di Đạo, sau đó sẽ cùng tiến vào đại trại Thục Hán. Lưu Bị tổng cộng lập hơn 40 trại từ Tỷ Quy tới Di Lăng, nhưng để tiết kiệm sức lực, Lục Tốn chủ trương tập kích 20 trại cách nhau.
Quân do thám của Thục Hán biết quân Ngô chuẩn bị tấn công, liền phi báo cho Lưu Bị. Lưu Bị được tin liền lệnh cho Phùng Tập, Trương Nam sẵn sàng nghênh chiến, và lệnh cho Ngô Ban bỏ đánh Di Đạo mà vượt sông lên phía bắc, chuẩn bị đánh vào quân chủ lực của Đông Ngô. Tuy nhiên, Lục Tốn không điều quân như Lưu Bị dự liệu mà cho quân đi đường thủy ngược dòng đánh vào đại trại ở Hào Đình. Nửa đêm, quân Ngô áp sát trại Thục và nổi lửa tấn công. Mùa hè nóng nực, trại quân Thục nằm trong rừng nhiều cây nên lửa rất dễ bén. Các doanh trại nhanh chóng bốc lửa, quân Thục trở tay không kịp, chết đến mấy vạn người. Trong khi rút lui, các đại tướng Trương Nam, Phùng Tập đều bị tử trận để bảo vệ cho Lưu Bị chạy thoát; Trình Kỳ, Mã Lương cũng chết trong loạn quân, Hoàng Quyền bị ngăn trở không rút về được, buộc phải đem quân mã sang hàng Ngụy. Lưu Bị chỉ còn tàn quân chạy vào núi Mã Yên, bị Lục Tốn truy kích. Ông phải sai quân mang giáp ra đốt để chặn đường quân Ngô, sau đó phá đường sạn đạo Di Lăng để ngăn truy binh, cuối cùng chạy thoát về thành Bạch Đế trong tình cảnh rất thê thảm. Lục Tốn cũng không cố chấp đuổi theo, mà rút quân về. Gia Cát Lượng ở Thành Đô nghe tin bại trận, cũng buồn bã mà than rằng giá như còn Pháp Chính thì tất có thể ngăn cản Lưu Bị đông chinh, mà giả sử vẫn đánh Ngô, cũng không đến mức thua to như vậy.
Như vậy, chiến dịch đông chinh của Lưu Bị đã thất bại hoàn toàn. Trận Di Lăng – Hào Đình này đã xác lập lần cuối cùng thế chia ba thiên hạ của Tào – Lưu – Tôn. Thục Hán hoàn toàn không còn cơ hội đoạt lại Kinh Châu, “Long Trung sách” của Gia Cát Lượng mất đi một phần quan trọng. Đông Ngô thì củng cố vững chắc quyền kiểm soát các quận Kinh Châu. Ba nước bắt đầu tiến vào giai đoạn cầm chừng lẫn nhau.
Qua đời và nhận định
Lưu Bị sau khi thua trận ở Di Lăng, vất vả mãi mới chạy về được thành Bạch Đế, sau đổi tên là thành Vĩnh An. Tuy hung hiểm, nhưng quân Ngô không thừa cơ truy kích thêm, lại có Triệu Vân trấn giữ, nên tạm an toàn. Ít lâu sau, nước Ngụy có động tĩnh phát đại quân nam hạ đánh Ngô. Lục Tốn lại cầm quân, giằng co với Ngụy ở Giang Lăng. Lưu Bị nghe tin, bèn viết thư gửi Lục Tốn, hỏi rằng: “Giặc nay đã ở Giang Hán, ta sắp sửa lại sang đông. Tướng quân nói xem việc ấy có được không?” Lục Tốn được thư, hiểu ngay hàm ý muốn cầu hòa của Lưu Bị, bèn gửi thư phúc đáp, một mặt vạch rõ quân Thục mới bị trọng thương không thể ra trận, mặt khác chủ động đề nghị giảng hòa. Tán thành với đề nghị của Lục Tốn, cuối năm 222, Tôn Quyền sai sứ đến gặp Lưu Bị, xin giảng hòa. Lưu Bị chấp nhận đề nghị, cũng sai sứ sang đáp lễ. Tuy nhiên, đây mới chỉ là hành động chấm dứt xung đột chứ hai bên vẫn chưa có thỏa thuận gì thêm về việc liên minh chống Ngụy. Ngay sau đó, Lưu Bị lâm bệnh nặng, nên việc bang giao với Ngô tạm ngưng.
Lưu Bị đau buồn vì thua trận, lại thêm việc nghe tin Tư đồ Hứa Dĩnh và tướng Mã Siêu lần lượt qua đời, nên bệnh tình ông thêm trầm trọng. Đến đầu năm 223, tự biết bản thân không còn sống được lâu, ông cho triệu Thừa tướng Gia Cát Lượng từ Thành Đô tới để bàn việc. Tình hình trong Thục bấy giờ cũng không yên ổn, luôn có nguy cơ xảy ra phản loạn. Gia Cát Lượng tới thành Vĩnh An, bắt tay ngay vào việc sắp xếp nội trị và quan lại các nơi để chuẩn bị cho tương lai Thục Hán.
Mùa hè năm 223, bệnh tình của Lưu Bị nguy kịch thêm. Ông gọi Gia Cát Lượng tới bên giường bệnh, dặn rằng: “Tài của ngài gấp mười Tào Phi, tất yên được quốc gia, chung định đại sự. Nếu con ta có thể giúp, hãy giúp nó. Nếu nó bất tài, ngài có thể tự làm chủ.” Gia Cát Lượng khóc lớn, thề sẽ trung thành phò tá Lưu Thiện, “một lòng giữ tiết trung trinh, đến chết mới thôi!”. Lời dặn dò này của Lưu Bị vừa có ý khẳng định sự tín nhiệm của ông với Gia Cát Lượng, vừa có ý ngầm dò xét và cả cảnh báo nhẹ xem Gia Cát Lượng có ý khác hay không. Cũng có ý kiến cho rằng mấy chữ “ngài có thể tự làm chủ” là Lưu Bị muốn ngầm chỉ rằng nếu Lưu Thiện bất tài, Gia Cát Lượng là Thừa tướng có quyền lập một hoàng tử khác lên ngôi. Nhưng dù có ý gì, thì lời dặn dò của Lưu Bị cũng thường được xem là sự tín nhiệm cao nhất với Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng là người tài giỏi, tất nhiên hiểu ý, và ông khẳng định lại lần nữa lòng trung thành của mình với Lưu Bị. Lưu Bị sau đó cũng cho viết chiếu gửi Thái tử Lưu Thiện, dặn phải coi Gia Cát Lượng như cha, không được trái lời. Ông cũng cho triệu quần thần, căn dặn việc Gia Cát Lượng và Lý Nghiêm phụ chính giúp Thái tử. Tháng 6 năm 223, Lưu Bị băng hà tại thành Vĩnh An, thọ 63 tuổi. Ông được truy tôn là Chiêu Liệt Hoàng đế, miếu hiệu Liệt tổ.
Lưu Bị thường được đánh giá là người khoan hòa nhân hậu, thậm chí đến mức bị nhiều người cho là “giả nhân giả nghĩa”. Thực ra ấn tượng này phần lớn đến từ những sự tô vẽ thái quá của “Tam quốc diễn nghĩa”. Trong thực tế, ông vẫn có mặt kiêu hùng, không ngại gian trá để đạt được mục đích. Đương nhiên, đánh giá ông là người nhân hậu cũng không sai, vì Lưu Bị có nhiều hành động thể hiện rõ nét tính cách ấy. Khi đánh trận, ông thường cố gắng tránh gây hại cho dân chúng. Các đối thủ của ông đều ít nhiều gây ra những vụ thảm sát đến hàng vạn người, riêng có Lưu Bị là chưa từng làm điều ấy. Khi bị Tào Tháo truy kích, ông cũng nhất quyết không bỏ rơi 10 vạn dân Kinh Châu đi theo, để đến mức thua tan tác mới chịu bỏ chạy. Vì đề cao nhân nghĩa, biết bảo vệ dân chúng như vậy nên sau này, chỉ có Lưu Bị là vị vua thời Tam Quốc được dân chúng kính trọng nhất, được lập đền thờ nhiều nơi, trong khi các vua Tào Ngụy và Đông Ngô gần như không được thờ phụng.
Ông cũng nổi tiếng là có tài thu phục lòng người và đối đãi với thủ hạ chân tình. Suốt quá trình gây dựng sự nghiệp, dù long đong lận đận khắp nơi, thua nhiều hơn thắng, nhưng vẫn có rất nhiều hào kiệt theo về với Lưu Bị. Các tướng lĩnh, quân sư thân cận của ông đều rất trung thành, không ai có lòng mưu phản, kể cả sau khi Lưu Bị đã qua đời.
Bên cạnh đó, Lưu Bị cũng được đánh giá là có tài năng và nhất là nghị lực hơn người. Khác với các đối thủ của mình, xuất phát điểm của Lưu Bị rất thấp. Tuy có danh là dòng dõi hoàng tộc, nhưng ông xuất thân từ một gia đình nghèo nàn, thuở nhỏ phải đan giày cỏ kiếm sống, tay trắng làm nên cơ nghiệp. Vì vậy, quá trình phát triển thế lực của Lưu Bị trong thời loạn cũng vất vả, gian truân hơn, lâu dài hơn. Tuy gặp nhiều thất bại nhưng ông vẫn kiên định, không nản lòng, tỏ ra có chí khí lớn. Trần Thọ viết “Tam quốc chí” nhận xét ông là người “có phong độ của Hán Cao tổ, có khí chất của bậc anh hùng”. Tào Tháo cũng không hề xem thường Lưu Bị, các mưu sĩ của ông như Trình Dục và Quách Gia đều “có hùng tài mà rất được lòng người, không chịu ở dưới người, mưu tính của Lưu Bị chưa thể lường được.” Lỗ Túc của Đông Ngô cũng coi Lưu Bị là kẻ kiêu hùng, và Lục Tốn cũng nhận xét rằng ông “nổi danh thiên hạ, đến Tào Tháo cũng phải e ngại.” Lưu Bị từng nhiều lần đích thân cầm quân chiến đấu và đã có nhiều lần giành được chiến thắng trước đối phương đông hơn, chứng tỏ khả năng võ nghệ và kiến thức quân sự của ông không hề kém. Thực ra, chỉ cần xét đến việc tuy chỗ long đong lận đận mười mấy năm trời không chốn dung thân, nhưng cuối cùng vẫn làm bá chủ một phương, là có thể thấy Lưu Bị hoàn toàn có thực tài, chứ không chỉ có hư danh. Dù rằng cuối cùng nhà Thục Hán của ông cũng không thể thống nhất được Tam quốc, và bản thân Lưu Bị cũng mắc không ít sai lầm, nhưng những gì ông làm được, cũng rất đáng coi trọng.