Quá trình bất ổn và chia rẽ của Trung Đông từ thế kỷ 20
Tháng mười 6, 2024
Mục đích của bài viết này nhằm giúp bạn đọc hiểu được rõ lịch sử bất ổn, chia rẽ và đau thương của Trung Đông từ thế kỷ 20.
Trong suốt lịch sử, Trung Đông đã nhiều lần xây dựng nên những nền văn minh rực rỡ. Dù là Ai Cập cổ đại, Babylon cổ đại, hay sau này là Đế chế Ba Tư hùng mạnh, mảnh đất cổ xưa này đã ươm mầm ra những triết học, tôn giáo, nghệ thuật sớm nhất, và truyền bá chúng sang bờ bên kia của Địa Trung Hải, kích thích sự ra đời của nền văn minh phương Tây với đại diện là Hy Lạp và La Mã cổ đại.
Trong phần lớn các giai đoạn lịch sử, nền văn minh Trung Đông luôn phát triển tiên tiến hơn so với nền văn minh phương Tây, đặc biệt là vào thời kỳ đầu Trung Cổ. Khi phương Tây rơi vào hỗn loạn, Trung Đông được thống nhất bởi Đế chế Ả Rập, phát triển kinh tế thịnh vượng và văn hóa rực rỡ. Các thành phố như Jerusalem, Baghdad, và Damascus trở thành những siêu đô thị. Vào thời điểm này, Trung Đông trở thành miền đất mơ ước của người Tây Âu và là biểu tượng của sự thịnh vượng.
Tuy nhiên, thời thế thay đổi. Trong thời hiện đại, với sự khởi đầu của phong trào Cải cách tôn giáo ở Tây Âu và cuộc Cách mạng Công nghiệp, Trung Đông dần dơi vào thế bất lợi trong cuộc cạnh tranh với Tây Âu. Đế chế thống nhất cuối cùng ở Trung Đông là Đế quốc Ottoman tan rã, gây ra sự phân chia Trung Đông thành nhiều phe phái khác nhau.
Trong thời cận đại, người châu Âu không xem người dân các nước thuộc địa như con người. Sau khi xâm lược Trung Đông, họ bắt ép một lượng lớn người dân địa phương tham gia vào việc xây dựng các công trình. Chỉ riêng việc xây dựng kênh đào Suez đã khiến Ai Cập mất hơn 100.000 lao động, với nhiều thi thể bị chôn vùi dưới lòng sông. Để dễ bề cai trị, phương Tây cố tình kích động mâu thuẫn giữa các giáo phái và sắc tộc ở Trung Đông, khuyến khích các bộ tộc sát hại lẫn nhau.
Có câu nói: “Thất Phu Vô Tội, Hoài Bích Kỳ Tội”. Bi kịch lớn nhất của Trung Đông là phát hiện ra dầu mỏ. Để tranh giành nguồn tài nguyên này, các nước phương Tây đã gây ra nhiều cuộc xung đột đẫm máu ở Trung Đông, nhiều lần khơi mào các cuộc chiến tranh ủy nhiệm, đặt nền móng cho tình trạng chiến tranh và bất ổn ở Trung Đông sau này.
Sau Thế chiến II, thế giới chứng kiến làn sóng độc lập của các thuộc địa. Người Ả Rập ở Trung Đông, dưới khẩu hiệu “quyền tự quyết của dân tộc”, hy vọng xây dựng một quốc gia thống nhất trải dài từ Ai Cập, Palestine, Syria, Iraq đến Ả Rập Saudi. Năm 1945, Liên đoàn các Quốc gia Ả Rập ra đời, điều này khiến phương Tây vô cùng lo ngại. Lịch sử cho thấy rằng khi Trung Đông được thống nhất, nó có thể trở thành một cường quốc siêu mạnh, gây ra mối đe dọa nghiêm trọng cho châu Âu, đồng thời phương Tây sẽ mất đi quyền lợi dầu mỏ tại khu vực này. Để ngăn chặn kế hoạch thống nhất Trung Đông, phương Tây đã chọn ủng hộ Israel tại “vành đai trăng lưỡi liềm” của Trung Đông.
Vùng “vành đai trăng lưỡi liềm”, bao gồm Palestine, Syria và Iraq. Đây vừa là đầu mối giao thông quan trọng của khu vực, vừa là vùng đất vô cùng màu mỡ. Trong lịch sử, bất kỳ một chế độ nào muốn thống nhất Trung Đông đều phải chiếm giữ vùng “vành đai trăng lưỡi liềm” (Fertile Crescent) này trước tiên. Phương Tây đã ngăn chặn sự thống nhất của Trung Đông bằng cách hỗ trợ Israel tại vùng đất này, như đóng một chiếc đinh vào thế giới Ả Rập. Phía tây Israel giáp với Ai Cập, phía đông là Iraq, phía nam là Ả Rập Saudi và phía bắc là Syria. Chừng nào Israel còn tồn tại, người Ả Rập sẽ không bao giờ có thể thống nhất, và thế giới Hồi giáo cũng không thể hợp nhất.
Chiến tranh Trung Đông lần thứ nhất
Người Ả Rập chưa bao giờ từ bỏ giấc mơ thống nhất, và họ coi Israel như cái gai trong mắt. Vào tháng 5 năm 1948, các quốc gia Ả Rập đã thành lập liên quân và phát động một cuộc tấn công toàn diện vào Israel. Họ đã chọn thời điểm rất tốt, vì lúc đó châu Âu đang bùng phát cuộc khủng hoảng Berlin, Mỹ và Liên Xô rơi vào thế đối đầu và không có khả năng can thiệp vào Trung Đông.Khi bắt đầu cuộc chiến, liên quân Ả Rập tiến lên mạnh mẽ, chiếm được một nửa lãnh thổ của Israel. Tuy nhiên, họ đã phạm sai lầm khi đánh giá thấp đối phương và vội vàng chấp nhận đề xuất ngừng bắn của Liên Hợp Quốc, tạo cơ hội cho Israel có một tháng nghỉ ngơi. Với sự giúp đỡ của các tập đoàn tài chính Do Thái từ phương Tây, Israel đã nhập khẩu một lượng lớn vũ khí từ khắp nơi trên thế giới, tái tổ chức lại quân đội, và cuối cùng đã lật ngược tình thế, giành chiến thắng, đồng thời phá tan giấc mơ thống nhất của thế giới Ả Rập.
Chiến tranh Trung Đông lần thứ hai
Người Ả Rập chưa bao giờ từ bỏ giấc mơ thống nhất, và Ai Cập là quốc gia đầu tiên thực hiện hành động vì lý tưởng này. Năm 1956, cuộc khủng hoảng kênh đào Suez nổ ra và Israel, với sự hỗ trợ của Anh và Pháp, đã phát động một cuộc tấn công lớn vào Ai Cập. Tổng thống Ai Cập lúc bấy giờ là Gamal Abdel Nasser đã không hề hoảng sợ. Ông yêu cầu toàn bộ nội các Ai Cập chuẩn bị thuốc độc, sẵn sàng tự sát nếu bị bắt. Đồng thời, ông cũng phát cho nhân dân 400.000 khẩu súng trường, chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân toàn diện. Cuối cùng, với sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, Ai Cập đã đẩy lùi cuộc tấn công của liên quân Anh, Pháp và Israel, giành lại quyền kiểm soát kênh đào Suez. Sự kiện này cũng đưa Nasser trở thành nhà lãnh đạo biểu tượng của thế giới Ả Rập.
Để tiếp tục thúc đẩy sự thống nhất của thế giới Ả Rập, Nasser đã nghiêng về phía Liên Xô trong chính sách đối ngoại, mạnh mẽ phát triển công nghiệp nặng, và tiến hành cải cách ruộng đất ở nông thôn, phân chia tài sản của người giàu cho người nghèo, áp dụng các chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Nhờ sức hút cá nhân của Nasser, Syria đã lựa chọn sáp nhập vào Ai Cập, thành lập Cộng hòa Ả Rập Thống nhất, đánh dấu bước đầu tiên trong hành trình thống nhất Ả Rập.
Chiến tranh Trung Đông lần thứ ba
Tất nhiên, Israel không thể ngồi yên trước sự trỗi dậy của Ai Cập. Năm 1967, Israel khơi mào cuộc Chiến tranh Trung Đông lần thứ ba. Ban đầu, Ai Cập có ưu thế nhờ nhập khẩu nhiều máy bay chiến đấu tiên tiến từ Liên Xô và áp dụng chiến lược phòng thủ. Tuy nhiên, Israel đã phát hiện một điểm yếu: máy bay Ai Cập cần ít nhất 15 phút để cất cánh. Tận dụng khoảng thời gian này, Israel đã phát động cuộc tấn công phủ đầu, dồn toàn bộ lực lượng không quân tấn công vào Ai Cập. Israel chia toàn bộ máy bay thành bốn đội, sử dụng chiến thuật bay ở độ cao cực thấp để tránh bị radar phát hiện, và tiến hành các đợt ném bom theo từng đợt tại các sân bay Ai Cập. Để tạo ra hiệu ứng tấn công không gián đoạn, Israel còn thả bom hẹn giờ với các khoảng thời gian phát nổ khác nhau. Mỗi 10 phút, một đợt ném bom lại ập đến, khiến hầu hết máy bay Ai Cập không kịp cất cánh và bị phá hủy ngay trên đường băng. Bằng chiến thuật tấn công bất ngờ này, Israel chỉ mất hơn 20 máy bay nhưng đã phá hủy hơn 300 máy bay Ai Cập, chiếm 90% lực lượng không quân của Ai Cập. Không quân mà Ai Cập dồn toàn bộ quốc lực để xây dựng đã bị tiêu diệt hoàn toàn, và họ mất quyền kiểm soát bầu trời, dẫn đến việc Israel chiếm được bán đảo Sinai.
Sau khi thua trận, Nasser rơi vào khủng hoảng cả trong lẫn ngoài. Kênh đào Suez bị đóng cửa, Ai Cập mất nguồn thu ngoại tệ quý giá, cộng thêm chi phí quân sự khổng lồ khiến tài chính Ai Cập rơi vào tình trạng kiệt quệ. Uy tín của Nasser giảm mạnh, và ông mất đi vị trí lãnh đạo thế giới Ả Rập, nhiều người bạn từng thân thiết cũng dần rời xa ông. Để trả thù Israel, Nasser đã nhiều lần tiếp cận Liên Xô để nhờ giúp đỡ về mặt quân sự. Tuy nhiên lúc này, lãnh đạo Liên Xô đã thay đổi từ Khrushchev sang Brezhnev, người không hào phóng trong việc viện trợ. Liên Xô đưa ra nhiều hứa hẹn “trống rỗng”, thậm chí còn muốn đổi viện trợ vũ khí lấy quyền đặt căn cứ quân sự tại Ai Cập. Nasser lúc này mới nhận ra rằng cả Mỹ và Liên Xô đều là “cá mè một lứa”, Liên Xô ủng hộ Ai Cập chỉ là cái cớ, mục tiêu thực sự là kiểm soát kênh đào Suez. Cuối cùng, kiệt quệ về tinh thần, Nasser qua đời khi mới hơn 50 tuổi. Sự ra đi của ông cũng đánh dấu sự sụp đổ của giấc mơ thống nhất thế giới Ả Rập.
Chiến tranh Trung Đông lần thứ tư
Năm 1973, để giành lại bán đảo Sinai, Ai Cập đã quyết định đánh cược một lần, phát động cuộc tấn công bất ngờ vào Israel. Để đánh lừa Israel, Ai Cập đã nhiều lần tổ chức các cuộc diễn tập quân sự thường xuyên và tạo ra ảo giác thiếu quân lực, khiến Israel tin rằng Ai Cập không đủ khả năng tấn công. Ai Cập và Syria còn chọn ngày lễ Yom Kippur của người Do Thái để ra tay, vì vào ngày này hầu hết binh sĩ và sĩ quan Israel đều nghỉ lễ. Cuộc tấn công chớp nhoáng của liên quân Ả Rập đã đạt được kết quả rất lớn. Quân đội Ai Cập dùng vòi rồng phá vỡ phòng tuyến bằng cát của Israel trên bán đảo Sinai, đồng thời tiêu diệt lữ đoàn thiết giáp tinh nhuệ nhất của Israel. Không chỉ vậy, do thiếu chuẩn bị, Israel còn đối mặt với tình trạng thiếu đạn pháo.
Trong bối cảnh này, Mỹ đã can thiệp. Mỹ đã sử dụng máy bay vận tải chiến lược để cung cấp cho Israel 20.000 tấn vật tư và trang bị, đồng thời cung cấp hỗ trợ tình báo qua vệ tinh, giúp quân đội Israel lợi dụng những khoảng trống của quân đội Ai Cập để thọc sâu vào phía sau, một lần nữa đảo ngược tình thế và giành chiến thắng.
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ 1
Sự ủng hộ của phương Tây đối với Israel đã khiến các quốc gia Ả Rập vô cùng tức giận. Năm 1973, Tổ chức OPEC do các quốc gia vùng Vịnh dẫn đầu tuyên bố cấm vận dầu mỏ đối với phương Tây. Trước đó, quyền khai thác dầu mỏ ở Trung Đông bị độc quyền bởi “nhóm bảy chị em dầu mỏ” (bao gồm các công ty như Shell, ExxonMobil), và để đảm bảo sự phát triển kinh tế của các nước phương Tây, những công ty này cố ý ép giá dầu, khiến giá một thùng dầu gần bằng giá một thùng nước. Người dân Trung Đông dù sở hữu mỏ vàng cũng như đang phải đi xin ăn. Đầu những năm 1970, các nước Trung Đông bắt đầu phong trào quốc hữu hóa ngành dầu mỏ, thu hồi quyền kiểm soát từ các công ty phương Tây. Sau cuộc Chiến tranh Trung Đông lần thứ tư, các nước sản xuất dầu ở Trung Đông đã đoàn kết lại, cùng tăng giá xuất khẩu dầu và cắt giảm 17% sản lượng. Từ năm 1973 đến 1974, giá dầu quốc tế tăng vọt từ 2,7 USD/thùng lên 11 USD/thùng, tăng gấp 4 lần.
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ đã khiến chủ nghĩa tư bản phương Tây rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Sản lượng công nghiệp của các nước châu Âu, Mỹ và Nhật Bản giảm hơn 15%, và tài chính từ thặng dư chuyển sang thâm hụt, chấm dứt hơn 20 năm thịnh vượng kinh tế sau Thế chiến II. Đồng thời, phương Tây phải đối mặt với hiện tượng lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, làm cho đường cong Phillips mất hiệu lực. Trước áp lực đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã tăng mạnh lãi suất, dẫn đến việc thị trường chứng khoán Mỹ sụt giảm, với giá trị thị trường bị cắt giảm hơn một nửa.
Hệ thống Petrodollar và Bản vị dầu mỏ
Câu nói “trong nguy có cơ” thực sự đúng trong bối cảnh khủng hoảng dầu mỏ, khi nó khiến nền kinh tế Mỹ suy thoái nghiêm trọng nhưng đồng thời cũng mở ra cơ hội để Mỹ tái định hình quyền lực của đồng đô la. Năm 1944, hệ thống Bretton Woods được thành lập, với đồng đô la Mỹ là trung tâm, trong đó đô la được gắn liền với vàng với tỷ giá 1 ounce vàng = 35 đô la, và các đồng tiền quốc gia khác neo vào đô la theo tỷ giá cố định, chẳng hạn như 1 đô la = 360 yên Nhật. Hệ thống này đã phát huy hiệu quả tốt trong những năm sau Thế chiến II, thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, vào cuối những năm 1960, hệ thống “vàng – đô la” ngày càng trở nên khó duy trì. Nguyên nhân bề mặt là vấn đề của tình trạng Triffin Dilemma: để duy trì sự phát triển của thương mại quốc tế, Mỹ cần tạo ra thâm hụt thương mại để xuất khẩu đô la, nhưng điều này lại dẫn đến sự mất giá của đồng đô la. Nguyên nhân sâu xa là sự tiến bộ công nghệ khiến giá các sản phẩm công nghiệp giảm, và để tránh giảm phát, nguồn cung đô la phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của vàng, điều này dẫn đến sự mất giá của đồng đô la so với vàng. Không những vậy, việc Mỹ sa lầy trong chiến tranh VN khiến lượng lớn dự trữ vàng chảy sang Tây Âu và Nhật Bản, làm cho đồng mark và yên khó duy trì tỷ giá cố định với đô la.
Năm 1971, Mỹ chính thức từ chối thực hiện nghĩa vụ chuyển đổi đô la sang vàng, khiến giá vàng tăng vọt, tăng gấp 6 lần chỉ trong ba năm. Sức mua của đồng đô la giảm mạnh, các quốc gia Tây Âu bắt đầu từ chối nhận đô la, đồng mark và franc Pháp một thời gian trở thành tiền tệ phổ biến. Tín dụng của đồng đô la rơi vào tình trạng nguy hiểm.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 đã mang đến cho Mỹ cơ hội tái thiết lập hệ thống tiền tệ của mình. Giới tinh hoa Mỹ nhận ra rằng, dầu mỏ là một nguồn tài nguyên không thể tái tạo và là yếu tố thiết yếu cho sự phát triển công nghiệp của mọi quốc gia. Nếu đồng đô la được gắn liền với dầu mỏ, thì mỗi khi nền công nghiệp toàn cầu phát triển, nhu cầu về đô la cũng sẽ tăng lên, tạo ra một “bể chứa” khổng lồ cho đồng đô la. Mỹ thậm chí có thể điều chỉnh nguồn cung đô la để tạo ra các chu kỳ kinh tế toàn cầu. Trong khi đó, nếu đồng đô la được gắn liền với lương thực, mỗi lần điều chỉnh nguồn cung đô la sẽ gây ra vấn đề thiếu đói trên toàn cầu.
Năm 1974, Mỹ tìm đến Ả Rập Saudi, quốc gia sản xuất dầu lớn nhất thế giới, và hai bên đã ký kết một thỏa thuận. Mỹ yêu cầu Ả Rập Saudi chỉ sử dụng đô la làm đồng tiền thanh toán duy nhất cho giao dịch dầu mỏ, và số tiền kiếm được từ xuất khẩu dầu phải được dùng để mua trái phiếu chính phủ Mỹ. Đổi lại, Mỹ cam kết bảo vệ an ninh quốc phòng cho Ả Rập Saudi, duy trì địa vị đặc quyền của hoàng gia nước này, và cung cấp vũ khí để đàn áp các phe đối lập trong nước. Ả Rập Saudi, với tư cách là quốc gia sản xuất dầu lớn nhất thế giới và là lãnh đạo của OPEC, đã kéo theo các nước sản xuất dầu khác ở Trung Đông đồng ý sử dụng đô la làm đồng tiền thanh toán cho giao dịch dầu mỏ. Như vậy, hệ thống tiền tệ toàn cầu đã chuyển từ bản vị vàng sang bản vị “dầu – đô la”.
Điều trớ trêu là những quốc gia mà Mỹ ủng hộ, bao gồm Ả Rập Saudi, Kuwait, Qatar, UAE và Iran (dưới thời Shah Pahlavi), hầu hết đều là các quốc gia quân chủ với màu sắc tôn giáo mạnh mẽ, hoàn toàn mâu thuẫn với các giá trị “dân chủ, bình đẳng, nhân quyền” mà Mỹ đề cao. Tuy nhiên, Mỹ không ngần ngại cung cấp bảo đảm an ninh cho các quốc gia này, cho thấy lợi ích kinh tế quan trọng hơn nhiều so với ý thức hệ đối với Mỹ.
Điều này cũng giải thích lý do tại sao trong những năm 1970, cung tiền của Mỹ phải tăng mạnh. Giá dầu tăng khiến giá trị của thương mại dầu mỏ tăng lên đáng kể, và trong bối cảnh đồng đô la được gắn với dầu mỏ, lượng đô la lưu hành trên thị trường phải tăng mạnh để đáp ứng nhu cầu thương mại quốc tế. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ không phải không hiểu mối liên hệ giữa việc in tiền quá mức và lạm phát, nhưng trong bối cảnh đồng đô la đã chuyển đổi bản vị, việc phát hành tiền tệ phải tăng lên.
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai
Năm 1979, do cuộc Cách mạng Iran và các yếu tố khác, thế giới đã chứng kiến cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai. Giá dầu quốc tế tăng từ 13 USD/thùng lên 39 USD/thùng, tăng gấp ba lần, và hiện tượng lạm phát đình trệ lại xuất hiện. Khác với lần trước, Mỹ trở thành nước hưởng lợi từ cuộc khủng hoảng dầu mỏ này. Việc giá dầu tăng cao khiến nhu cầu về đô la của các nước tăng mạnh, đồng đô la và trái phiếu chính phủ Mỹ trở thành những tài sản quý giá, buộc các nước phải dự trữ lượng lớn ngoại tệ bằng đô la để đối phó với khủng hoảng. Từ năm 1979 đến 1985, chỉ số đô la Mỹ đã tăng từ 85 lên 160, củng cố vững chắc vị thế tiền tệ toàn cầu của đồng đô la.
Trong thập niên 1970, từng có thời điểm tình hình quốc tế diễn ra theo chiều hướng “Liên Xô tấn công, Mỹ phòng thủ”. Giá dầu cao giúp doanh thu tài chính của Liên Xô tăng đáng kể, cho phép họ có đủ kinh phí để tham gia cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ. Liên Xô thậm chí còn tin rằng mình có thể trở thành người chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, đến thập niên 1980, khi hệ thống “dầu mỏ – đô la” được củng cố và Mỹ hoàn thành việc kiểm soát các nước sản xuất dầu ở Trung Đông, tình hình của Liên Xô bắt đầu xấu đi nhanh chóng.
Giữa thập niên 1980, dưới sự chỉ đạo của Mỹ, các nước sản xuất dầu ở Trung Đông, dẫn đầu bởi Ả Rập Saudi, đã tăng sản lượng dầu lên 50% trong vòng 4 năm, khiến giá dầu quốc tế sụt giảm xuống còn 15 USD/thùng. Điều này khiến doanh thu tài chính của Liên Xô giảm mạnh. Không chỉ không thể duy trì chi tiêu quân sự khổng lồ, ngay cả chi tiêu dân sự bình thường cũng bị cắt giảm đáng kể. Đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự tan rã của Liên Xô.
Cũng từ thập niên 1970, thế giới Ả Rập ở Trung Đông bắt đầu phân hóa thành hai phe.
– Một phe gồm các quốc gia “vành đai trăng lưỡi liềm” như Ai Cập, Syria, Palestine, Jordan và Lebanon, chủ yếu dựa vào nông nghiệp và có dân số đông.
– Phe còn lại là các quốc gia vùng Vịnh như Ả Rập Saudi, Kuwait, UAE và Qatar, dựa vào ngành công nghiệp dầu mỏ và tích lũy được khối tài sản khổng lồ nhờ giá dầu cao.
Các quốc gia “vành đai trăng lưỡi liềm” thân cận với Liên Xô và giữ thái độ thù địch với Israel, trong khi các quốc gia vùng Vịnh thân thiện hơn với phương Tây và chủ trương hòa hoãn với Israel.
Hiệp định Trại David (Camp David Accords)
Năm 1976, vì tức giận với thái độ thờ ơ của Liên Xô trong cuộc Chiến tranh Trung Đông lần thứ tư, Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat đã bãi bỏ Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Ai Cập-Liên Xô, từ bỏ chính sách ngoại giao một chiều và bắt đầu tiếp xúc với phương Tây. Năm 1978, Ai Cập và Israel đã ký Hiệp định Trại David, và hai năm sau, Israel và Ai Cập chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, đồng thời Israel trao trả lại bán đảo Sinai cho Ai Cập. Ai Cập chính thức rút khỏi liên minh chống Israel, gây ra sự phẫn nộ lớn trong thế giới Ả Rập, và Liên đoàn Ả Rập thậm chí đã tạm thời khai trừ tư cách thành viên của Ai Cập. Năm 1981, Tổng thống Sadat, người đã hòa giải với Israel, bị ám sát bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên, ngay cả sau sự kiện này, Ai Cập cũng không quay lại con đường đối đầu với Israel. Đáng chú ý là người đứng sau cuộc hòa giải giữa Ai Cập và Israel là Ả Rập Saudi và Mỹ, khi Ả Rập Saudi đã dùng viện trợ kinh tế làm đòn bẩy để buộc Ai Cập thỏa hiệp với Israel.
Trong thập niên 1950, Trung Quốc và Ai Cập là hai đồng minh quan trọng nhất của Liên Xô. Trung Quốc là quốc gia lớn nhất Đông Á, với dân số khổng lồ, đã giúp Liên Xô ổn định tình hình ở Viễn Đông thông qua cuộc chiến tranh Triều Tiên. Ai Cập là lãnh đạo của thế giới Ả Rập, kiểm soát kênh đào Suez – một tuyến đường huyết mạch quan trọng. Nếu Liên Xô có thể duy trì quan hệ với Trung Quốc và Ai Cập, có lẽ họ đã không thua trong Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, sau khi Brezhnev lên nắm quyền, ông đã theo đuổi chính sách bá quyền, biến Liên Xô từ một “người anh cả xã hội chủ nghĩa” thân thiện thành một “đế chế đỏ” đầy tham vọng.
Trong cuộc Chiến tranh Trung Đông lần thứ tư năm 1973, sự thụ động của Liên Xô đã khiến Ai Cập nhìn thấu bản chất yếu kém của Liên Xô. Kết quả là cả Trung Quốc và Ai Cập đều nghiêng về phía Mỹ trong thập niên 1970: Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách cải cách mở cửa, còn Ai Cập thì hòa giải với Israel. Điều này không hoàn toàn là sự ngẫu nhiên.
Cuộc chiến Lebanon lần thứ nhất
Sau khi Ai Cập hòa giải với Israel, lực lượng chính trong liên minh chống Israel ở Trung Đông chỉ còn lại Syria. Kể từ năm 1971, Syria đã được cai trị bởi gia tộc Assad, những người kiên quyết đối đầu với Israel. Syria đã chi 2 tỷ USD để mua 19 hệ thống tên lửa phòng không SAM-6 từ Liên Xô và triển khai chúng ở thung lũng Bekaa thuộc Lebanon, đồng thời triển khai 50.000 binh sĩ tinh nhuệ tại khu vực này, khiến Israel luôn cảm thấy bị đe dọa. Năm 1982, khi cuộc chiến tranh Falklands nổ ra, phương Tây bị cuốn vào xung đột này, trong khi Iraq và Iran – hai cường quốc lớn ở Trung Đông – đang chìm trong cuộc chiến tranh không thể kiềm chế, không thể can thiệp ra bên ngoài. Điều này đã tạo cơ hội cho Israel. Lấy cớ đàn áp Tổ chức Giải phóng Palestine, Israel phát động cuộc tấn công mạnh mẽ vào quân đội Syria đang đóng quân tại Lebanon. Ban đầu, quân đội Israel chia làm ba hướng tấn công thẳng vào Lebanon, nhưng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân đội Syria, khiến Israel mất hàng trăm xe tăng.
Để giành quyền kiểm soát bầu trời, Israel quyết định tiêu diệt các trận địa phòng không của quân đội Syria tại thung lũng Bekaa. Đầu tiên, Israel thả một lượng lớn máy bay không người lái làm mồi nhử vào các trận địa của quân đội Syria. Tưởng rằng bị tấn công, quân đội Syria phóng tên lửa phòng không SAM-6. Ngay khi radar của Syria được kích hoạt, các máy bay không người lái của Israel đã bắt được tín hiệu radar, xác định vị trí của các hệ thống này và truyền thông tin đó về cho các máy bay cảnh báo sớm E-2C ở hậu phương. Dưới sự dẫn đường của E-2C, các chiến đấu cơ Phantom của Israel đã phóng hàng trăm tên lửa chống bức xạ, chính xác phá hủy hệ thống radar của quân đội Syria. Không còn radar, hệ thống phòng không của Syria trở nên vô dụng, và những chiếc F-16 của Israel đã chờ sẵn, ập vào dội bom tàn phá các trận địa phòng không tại thung lũng Bekaa. Các trận địa phòng không mà Syria dày công xây dựng trong suốt 10 năm đã bị tiêu diệt chỉ trong chưa đầy 10 phút.
Không chịu bỏ cuộc, quân đội Syria tập hợp số máy bay còn lại để chuẩn bị phản công Israel. Tuy nhiên, vừa cất cánh, các máy bay của Syria đã bị máy bay cảnh báo sớm của Israel phát hiện và tính toán trước quỹ đạo bay bằng hệ thống điện tử. Israel sau đó sử dụng các máy bay tác chiến điện tử để tiến hành áp chế điện từ lên không quân Syria, khiến radar của máy bay Syria chỉ còn hiển thị toàn tuyết trắng. Nhiều máy bay Syria chưa kịp phát hiện máy bay đối phương đã bị bắn hạ. Ngay cả những máy bay Syria ít ỏi tiến hành cận chiến với máy bay Israel bằng cách sử dụng động cơ tăng lực, các tên lửa dẫn đường hồng ngoại của họ cũng bị các bẫy nhiệt của Israel đánh lừa, khiến tỷ lệ trúng đích cực kỳ thấp.
Trong tất cả các cuộc chiến trên không ở Trung Đông, khoảng cách lớn nhất giữa không quân Ả Rập và không quân Israel không nằm ở phần cứng, mà ở chất lượng phi công. Phần lớn phi công Israel đều có trình độ học vấn từ cử nhân khoa học kỹ thuật trở lên. Với cùng một loại máy bay có hiệu suất tương tự, phi công Israel thường khai thác tối đa tiềm năng của nó hơn so với đối phương.
Nhờ vào công nghệ tác chiến điện tử, Israel đã thực hiện một cuộc tấn công vượt trội, hủy diệt không quân Syria. Sau khi nắm quyền kiểm soát không phận, Israel phát động cuộc tấn công toàn diện vào lực lượng mặt đất của Syria. Bom chùm được thả xuống như cào cào vào các vị trí của quân đội Syria, biến mặt đất thành một biển lửa. Quân đội Syria hoàn toàn tan rã và buộc phải cầu hòa, giúp Israel giành chiến thắng cuối cùng.
Nếu cuộc Chiến tranh Trung Đông lần thứ tư đã đánh bại Ai Cập, thì cuộc Chiến tranh Trung Đông lần thứ năm đã làm suy yếu Syria, giúp Israel lần lượt loại bỏ hai kẻ thù mạnh nhất của mình. Tuy nhiên, khi người Israel chuẩn bị ăn mừng chiến thắng, một quốc gia Ả Rập khác bắt đầu nổi lên mạnh mẽ: Iraq.
Năm 1979, Saddam Hussein trở thành tổng thống Iraq, và ngay từ những ngày đầu lên nắm quyền, ông đã thực hiện nhiều cải cách táo bạo. Về mặt kinh tế, Saddam tiến hành quốc hữu hóa ngành dầu mỏ, nhập khẩu công nghệ tiên tiến từ phương Tây và tăng cường đáng kể sản lượng dầu mỏ. Nhờ nắm bắt được cơ hội giá dầu tăng vọt sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ, GDP của Iraq đã tăng vọt từ 30 tỷ USD năm 1970 lên 600 tỷ USD năm 1989, tăng gấp 20 lần.
Trong bối cảnh thu nhập tài chính của Iraq tăng mạnh, Saddam đã triển khai các chính sách phúc lợi toàn dân, bao gồm y tế miễn phí và giáo dục bắt buộc. Đồng thời, ông cũng nhập khẩu nhiều vũ khí tiên tiến từ Liên Xô và xây dựng một quân đội hùng mạnh.
Saddam là một người ủng hộ mạnh mẽ chủ nghĩa dân tộc Ả Rập, với mục tiêu đuổi Israel ra khỏi Trung Đông và thành lập một nhà nước Ả Rập thống nhất. Từ thập niên 1980, Iraq đã trở thành lãnh đạo mới của thế giới Ả Rập, tiếp nối vai trò của Ai Cập và Syria trong cuộc kháng chiến chống lại Israel, với tầm ảnh hưởng quốc tế ngày càng tăng.
Chiến tranh Iran-Iraq
Năm 1979, cuộc Cách mạng Iran nổ ra, triều đại Pahlavi thế tục và thân phương Tây bị lật đổ, thay vào đó là lực lượng tôn giáo dòng Shiite do Ayatollah Khomeini lãnh đạo lên nắm quyền. Điều này khiến Saddam Hussein vô cùng lo lắng, vì mặc dù Iraq do người Hồi giáo Sunni cai trị, nhưng phần lớn dân số lại theo đạo Shiite. Saddam lo ngại rằng Iran sẽ xuất khẩu cách mạng ra bên ngoài, kích động dân chúng Iraq nổi dậy. Nhiều quốc gia Ả Rập, bao gồm cả Ả Rập Saudi, cũng chia sẻ mối lo ngại này. Một phần vì họ coi Iran theo dòng Shiite là dị giáo, và phần khác vì Iran chủ yếu là người Ba Tư, có mối thù lịch sử với người Ả Rập.
Năm 1980, với sự hỗ trợ của thế giới Ả Rập, Iraq huy động 200.000 quân, hàng ngàn xe tăng và hàng trăm máy bay, phát động cuộc tấn công vào Iran. Ban đầu, Iraq đã đạt được một số thắng lợi, nhưng dưới sự cổ vũ của tinh thần tôn giáo, cùng với nguồn lực quốc gia mạnh mẽ hơn, Iran đã đẩy lùi chiến tuyến vào sâu trong lãnh thổ Iraq, dẫn đến tình trạng chiến tranh giằng co. Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến, cả hai bên đều tấn công vào các tàu chở dầu của nhau, làm nhiều tàu bị phá hủy, và eo biển Hormuz bị phong tỏa trong một thời gian. Iraq có sự hỗ trợ tài chính từ Ả Rập Saudi và Kuwait, trong khi Iran dựa vào tinh thần đoàn kết tôn giáo và dân số gấp đôi Iraq. Không bên nào có thể dễ dàng đánh bại đối phương.
Cuộc chiến giữa Iran và Iraq kéo dài suốt tám năm, biến khu vực biên giới của hai nước thành đống đổ nát. Nhiều tàu thuyền, cảng biển và mỏ dầu bị phá hủy, gây thiệt hại kinh tế lên đến 600 tỷ USD và hơn một triệu người thương vong. Iraq đã tiêu tốn hầu hết tài sản quốc gia cho cuộc chiến này. Trước chiến tranh, Iraq có 37 tỷ USD dự trữ ngoại tệ, nhưng sau chiến tranh, nước này nợ 70 tỷ USD và sức mạnh quốc gia suy yếu nghiêm trọng, mất vị thế lãnh đạo thế giới Ả Rập.
Cuộc chiến này cũng là một cú sốc lớn đối với Saddam Hussein. Ông mất đi sự bình tĩnh và lý trí vốn có. Với khoản nợ khổng lồ từ Ả Rập Saudi và Kuwait, Saddam hy vọng rằng OPEC sẽ cắt giảm sản lượng dầu để nâng giá, giúp Iraq tăng thu từ xuất khẩu dầu và trả nợ. Tuy nhiên, Kuwait đã từ chối yêu cầu này, khiến Saddam vô cùng tức giận. Ông cho rằng cuộc chiến giữa Iraq và Iran là một sự hy sinh lớn để bảo vệ thế giới Ả Rập, ngăn chặn sự lan rộng của dòng Shiite, vì vậy Kuwait và Ả Rập Saudi có nghĩa vụ xóa nợ cho Iraq.
Sau khi các cuộc đàm phán thất bại, vào năm 1990, Saddam quyết định xâm lược Kuwait và tuyên bố Kuwait trở thành “tỉnh thứ 19” của Iraq.
Chiến Tranh vùng Vịnh
Năm 1991, liên quân do Mỹ đứng đầu đã phát động cuộc tấn công vào Iraq. Quân đội Mỹ trước hết sử dụng công nghệ áp chế điện từ để làm tê liệt hệ thống radar của Iraq, sau đó điều máy bay tàng hình F-117 ném bom chính xác vào các mục tiêu quan trọng như trạm điện, sân bay và trung tâm chỉ huy, khiến các đơn vị quân đội Iraq mất liên lạc với nhau. Sau đó, liên quân 500.000 người đã tiến thẳng vào sau lưng quân đội Iraq, các trực thăng vũ trang tấn công chính xác xe tăng của Iraq, và những quả bom chùm nặng hàng tấn trút xuống đầu quân Iraq như mưa lửa. Mỗi quả bom chùm khi rơi xuống sẽ phân tách thành hàng nghìn mảnh nhỏ, gây sát thương diện rộng khủng khiếp. Quân đội Iraq chịu thiệt hại nặng nề, các con đường từ Kuwait đến Baghdad đầy rẫy những xác xe tăng và phương tiện của quân đội Iraq. Các quốc gia phương Tây chỉ mất chưa đầy 100 giờ để khiến đội quân hàng triệu người của Iraq sụp đổ hoàn toàn và sau đó áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế nghiêm ngặt lên Iraq. Từ đó, Iraq mất đi sức mạnh và không còn khả năng để thống trị Trung Đông.
Trong hơn một thập kỷ sau Chiến tranh Vùng Vịnh, Israel gần như thống trị toàn bộ khu vực Trung Đông. Không có quốc gia Ả Rập nào đủ mạnh để thách thức vị thế của Israel.
Đầu những năm 2000, Israel sử dụng các biện pháp bạo lực để trục xuất người Palestine khỏi Dải Gaza và Bờ Tây sông Jordan, tạo ra hàng triệu người tị nạn và khiến thế giới Ả Rập phẫn nộ. Tuy nhiên, do sự chênh lệch lớn về sức mạnh, không một quốc gia Ả Rập nào dám can thiệp. Năm 2003, Mỹ xâm lược Iraq và nhanh chóng đánh bại lực lượng chủ lực của quân đội Iraq, lật đổ chính quyền Saddam Hussein. Dưới sự hỗ trợ của Mỹ, Israel ngày càng cực đoan, và hàng chục nghìn người Ả Rập đã chết dưới bàn tay của Israel.
Tuy nhiên, câu nói “thời thế thay đổi” lại ứng nghiệm. Đầu những năm 2000 là thời điểm đỉnh cao của Israel, nhưng cuộc chiến ở Iraq, dù đã phá hủy chính quyền Iraq, lại đẩy Mỹ vào một cuộc chiến kéo dài 8 năm, khiến quân đội Mỹ mệt mỏi trong việc duy trì trật tự. Quan trọng hơn, các cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq đã tạo điều kiện cho sự trỗi dậy nhanh chóng của Nga và Trung Quốc. Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc phát triển với tốc độ chóng mặt, đạt mức tăng trưởng kinh tế hàng năm ở hai con số. GDP của Trung Quốc tăng vọt từ 1,3 nghìn tỷ USD năm 2001 lên 7,3 nghìn tỷ USD vào năm 2011, đưa Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Hai cuộc chiến tranh cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc và Ấn Độ đã dẫn đến một siêu chu kỳ tăng giá hàng hóa toàn cầu, với giá dầu, khí đốt, than đá và quặng sắt tăng vọt. Giá dầu quốc tế đã tăng từ 9 USD/thùng năm 1999 lên 147 USD/thùng năm 2008, mang lại niềm vui lớn cho Tổng thống Nga Vladimir Putin. Nhờ vào xuất khẩu năng lượng, nền kinh tế Nga đã thoát khỏi khủng hoảng, với GDP tăng từ 260 tỷ USD năm 2000 lên 1,7 nghìn tỷ USD năm 2008. Khi tình hình tài chính cải thiện, quân đội Nga cũng tiến hành hiện đại hóa vũ khí và trang bị. Những thành tựu này đã giúp Putin duy trì tỷ lệ ủng hộ cao, tạo điều kiện cho ông tiếp tục cầm quyền lâu dài.
Vòng cung Shiite
Sự trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc đã khiến Mỹ thay đổi trọng tâm chiến lược. Năm 2011, Tổng thống Obama công bố chiến lược “xoay trục sang châu Á” (hay “tái cân bằng châu Á”), rút quân khỏi Iraq và điều động phần lớn lực lượng sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Điều này làm suy giảm ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Đông, và sự hỗ trợ dành cho Israel cũng giảm, gây ra sự bất mãn trong các nhóm lợi ích Do Thái. Mặt khác, khi Nga phục hồi sau khủng hoảng, nước này đã tăng cường hỗ trợ cho Iran, cả về tài chính lẫn vũ khí. Iran bắt đầu trỗi dậy, tận dụng khoảng trống quyền lực ở Trung Đông do sự suy yếu của Iraq để mở rộng tầm ảnh hưởng. Iran đã vươn dài “vòi bạch tuộc” của mình đến vùng “vành đai trăng lưỡi liềm”, với ý đồ xây dựng một “vòng cung Shiite” bao gồm Iraq, Syria, Lebanon, Bahrain và Yemen.
Chiến lược của Iran đã làm dấy lên lo ngại ở Israel và Ả Rập Saudi. Cả hai quốc gia này đã gây sức ép lên Mỹ, yêu cầu Washington can thiệp quân sự vào Iran. Tuy nhiên, Mỹ khi đó vẫn chưa hoàn toàn phục hồi sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ Nga và Trung Quốc. Do vậy, Mỹ không đủ khả năng triển khai lực lượng để đối phó trực tiếp với Iran. Thay vào đó, Mỹ đã sử dụng các công cụ truyền thông xã hội như Twitter để khuấy động các phong trào cách mạng màu ở Trung Đông, khởi đầu cho “Mùa xuân Ả Rập”. Các cuộc nổi dậy và xung đột lớn đã xảy ra tại nhiều quốc gia, bao gồm Ai Cập, Libya, Yemen, và đặc biệt là Syria.
Syria trở thành mục tiêu chính của Mỹ trong khu vực, vì đây vừa là đồng minh của Iran trong khối Shiite, vừa cung cấp cho Nga cảng quân sự duy nhất của họ ở Trung Đông. Mỹ đã tập trung vào việc làm suy yếu Syria nhằm phá vỡ liên minh Iran-Syria và giảm ảnh hưởng của Nga trong khu vực.
Nội chiến Syria
Kể từ năm 2011, dưới sự hỗ trợ của Mỹ, các lực lượng vũ trang như quân nổi dậy, các tổ chức người Kurd và ISIS đã nổi lên ở Syria, khiến một quốc gia đã ổn định trong suốt 50 năm rơi vào nội chiến. Các phe phái giao tranh dữ dội, khiến GDP của Syria giảm 90%, và một nửa dân số mất nhà cửa, hàng triệu người trở thành người tị nạn và tràn vào châu Âu, gây ra cuộc khủng hoảng tị nạn lớn nhất kể từ sau Thế chiến II.
Không chỉ vậy, Israel và Thổ Nhĩ Kỳ cũng lợi dụng tình hình để chiếm đoạt lãnh thổ ở Syria. Israel hoàn toàn kiểm soát được Cao nguyên Golan, còn Thổ Nhĩ Kỳ, lấy cớ đánh người Kurd, đã chiếm đóng các khu vực ở phía bắc Syria. Syria, một quốc gia từng có thể đối đầu với Israel, giờ đây rơi vào cảnh phân chia và suy yếu.
Khi quân đội chính phủ Syria liên tục thất bại, Nga đã can thiệp. Năm 2014, cuộc khủng hoảng Crimea bùng nổ, phương Tây áp đặt các lệnh trừng phạt kinh tế quy mô lớn lên Nga, và quan hệ giữa Nga với phương Tây chính thức tan vỡ. Để giảm bớt áp lực ở châu Âu, Nga quyết định mở thêm một mặt trận ở Trung Đông. Năm 2015, quân đội Nga can thiệp vào tình hình Syria. Không quân Nga tiến hành các cuộc không kích chớp nhoáng vào lực lượng quân nổi dậy và ISIS, phá hủy nhiều căn cứ của họ và tiêu diệt hàng ngàn lính đánh thuê của Anh và Mỹ. Nga cũng gửi lực lượng bộ binh để hỗ trợ quân đội Syria trong các cuộc phản công, và trong chưa đầy một năm, liên quân Nga-Syria đã giành lại phần lớn lãnh thổ đã mất. Bước đi của Nga đã đạt được thành công lớn, vừa bảo vệ căn cứ quân sự ở Syria, vừa làm thất bại âm mưu của phương Tây nhằm lật đổ chính quyền Syria.
Với sự giúp đỡ của Nga, một “liên minh sắt thép” đã hình thành giữa Iran, Syria và Yemen ở Trung Đông. Mặc dù chịu nhiều lệnh trừng phạt từ phương Tây, nhờ vào sự hỗ trợ của Nga, sức mạnh quốc gia của Iran không những không suy giảm mà còn tăng lên, biến Iran trở thành quốc gia Hồi giáo mạnh thứ tư sau Ai Cập, Syria và Iraq, dẫn đầu trong việc chống Mỹ và Israel. Iran cũng đẩy nhanh quá trình phát triển vũ khí hạt nhân với mục đích răn đe phương Tây, điều này khiến Iran trở thành quốc gia bị Israel căm ghét nhất. Mặc dù Israel sở hữu vũ khí hạt nhân, nhưng diện tích nhỏ bé khiến họ dễ bị tổn thương trong trường hợp bị tấn công hạt nhân, do đó, việc ngăn chặn Iran phát triển hạt nhân trở thành mục tiêu chiến lược hàng đầu của Israel.
Ngoài Iran, Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã gia tăng ảnh hưởng trong thế giới Hồi giáo trong hơn một thập kỷ qua.
Thổ Nhĩ Kỳ gia tăng ảnh hưởng trong thế giới Hồi giáo
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Thổ Nhĩ Kỳ là đồng minh quý giá nhất của phương Tây vì vị trí chiến lược kiểm soát lối ra vào Biển Đen, là chốt chặn quan trọng để ngăn chặn Liên Xô. Mỹ đã không tiếc công sức hỗ trợ Thổ Nhĩ Kỳ, giống như cách họ đã hỗ trợ Hàn Quốc và Nhật Bản, cung cấp tiền bạc và trang bị quân sự. Để lôi kéo Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ đã chuyển dây chuyền sản xuất chiến đấu cơ F-16 cho nước này, thậm chí mời Thổ Nhĩ Kỳ tham gia phát triển chung chiến đấu cơ tàng hình F-35. Nhờ sự hỗ trợ của Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành cường quốc số một ở Trung Đông và từng là quốc gia giàu có nhất ở bờ đông Địa Trung Hải. Thổ Nhĩ Kỳ vô cùng biết ơn sự “hào phóng” của phương Tây, và bất chấp rủi ro bị Liên Xô tấn công, nước này cho phép Mỹ triển khai vũ khí hạt nhân trên lãnh thổ của mình, điều này dẫn đến cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba.
Tuy nhiên, câu nói “Được chim bẻ ná, được cá quăng nơm” lại đúng trong trường hợp này. Sau khi Liên Xô tan rã, giá trị chiến lược của Thổ Nhĩ Kỳ đối với phương Tây giảm sút đáng kể, và phương Tây đã cắt giảm viện trợ kinh tế cho nước này. Quan trọng hơn, mặc dù Thổ Nhĩ Kỳ đã sớm nộp đơn xin gia nhập Liên minh châu Âu (EU), nhưng luôn bị từ chối. Nguyên nhân chính là Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia Hồi giáo, và sâu thẳm trong tâm trí, EU luôn xem các quốc gia không cùng tôn giáo là “khác biệt”. Người Thổ Nhĩ Kỳ thất vọng khi nhận ra rằng từ đầu họ đã không được coi là một phần của phương Tây.
Từ đầu những năm 2000, Thổ Nhĩ Kỳ mất dần hy vọng gia nhập EU và từ bỏ con đường thế tục hóa và phương Tây hóa (chủ nghĩa Kemalism) mà họ đã theo đuổi trong nhiều thập kỷ. Thay vào đó, Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu đề cao hồi sinh tôn giáo và dân tộc, khơi dậy lòng tự hào dân tộc về truyền thống Hồi giáo và vinh quang của Đế chế Ottoman. Recep Tayyip Erdoğan, lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ, đã bước lên sân khấu lịch sử trong bối cảnh đó. Về kinh tế, Erdoğan thúc đẩy các chính sách tư nhân hóa, sử dụng thị trường để kích thích tăng trưởng kinh tế. Ông cũng chủ trương duy trì mức lãi suất thấp để thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng và bất động sản, với hàng loạt đường cao tốc và tòa nhà cao tầng mọc lên khắp nơi. Ngoài cơ sở hạ tầng và bất động sản, Erdoğan cũng chú trọng phát triển ngành du lịch, nhằm tăng thu ngoại tệ. Từ năm 2001 đến 2013, GDP của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng từ 200 tỷ USD lên 1 nghìn tỷ USD, sức mạnh tổng hợp của quốc gia này được nâng cao rõ rệt.
Về chính trị, Erdoğan chuyển hệ thống nghị viện thành hệ thống tổng thống và cắt giảm quyền lực của quân đội bằng cách hạn chế quyền tài chính của họ. Do không hài lòng với cách điều hành của Erdoğan, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ, với sự ủng hộ của phương Tây, đã phát động một cuộc đảo chính vào năm 2016 nhằm lật đổ chính quyền của ông. Tuy nhiên, nhờ nhận được tin báo trước từ Nga, Erdoğan đã kịp thời dập tắt cuộc đảo chính, và phe đối lập tại Thổ Nhĩ Kỳ đã bị đàn áp mạnh mẽ hơn nữa.
Cuộc đảo chính này cũng là bước ngoặt trong chính sách ngoại giao của Thổ Nhĩ Kỳ, khi từ việc thân Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ chuyển sang duy trì thế cân bằng giữa Mỹ và Nga. Trong cuộc nội chiến Syria, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ nhiều lần lấy cớ tiêu diệt khủng bố để tấn công vào các căn cứ của quân đội Mỹ. Mỹ, do không muốn đối đầu quá mức với Thổ Nhĩ Kỳ, buộc phải chịu đựng.
Về vấn đề Palestine, Thổ Nhĩ Kỳ đã thay đổi lập trường trung lập trước đây, nhiều lần lên án Israel. Vào năm 2010, Israel từng dùng vũ lực để ngăn chặn một tàu cứu trợ của Thổ Nhĩ Kỳ tiến vào Dải Gaza, gây thương vong và dẫn đến khủng hoảng ngoại giao giữa hai nước. Ngoài những mâu thuẫn về tôn giáo, Thổ Nhĩ Kỳ và Israel còn có xung đột địa chính trị liên quan đến Syria, khi cả hai nước đều muốn lợi dụng tình hình hỗn loạn để giành thêm lãnh thổ, dẫn đến nhiều cuộc xung đột căng thẳng.
Mỹ không thể chấp nhận sự trỗi dậy của Thổ Nhĩ Kỳ ở Trung Đông, lấy lý do Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu tên lửa phòng không S-400 từ Nga, Mỹ đã hủy tư cách của Thổ Nhĩ Kỳ trong việc mua máy bay chiến đấu F-35. Năm 2018, Mỹ áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế lên Thổ Nhĩ Kỳ, khiến đồng lira của Thổ Nhĩ Kỳ giảm mạnh và lạm phát tăng lên hai con số. Để không quá đối đầu với Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ cũng thể hiện thái độ cứng rắn với Nga.
Ví dụ, năm 2020, Thổ Nhĩ Kỳ đã lợi dụng thời điểm diễn ra bầu cử Tổng thống Mỹ để thúc đẩy Azerbaijan tấn công Armenia – một đồng minh của Nga. Azerbaijan, với địa hình chủ yếu là đồng bằng và sở hữu mỏ dầu Caspi, có nền kinh tế phát triển tốt hơn Armenia, lại nhận được sự hỗ trợ máy bay không người lái từ Thổ Nhĩ Kỳ. Các xe tăng của Armenia giống như làm bằng giấy trước sức mạnh của những máy bay này. Azerbaijan đã dễ dàng giành chiến thắng trong cuộc chiến, và ảnh hưởng của Thổ Nhĩ Kỳ mở rộng đến khu vực Biển Caspi.
Trong cuộc chiến Nga-Ukraine, Thổ Nhĩ Kỳ lại tận dụng cả hai phía. Một mặt, họ cung cấp máy bay không người lái TB-2 cho Ukraine, qua đó quảng bá vũ khí của mình. Mặt khác, họ ký thỏa thuận khí đốt với Nga, nhập khẩu năng lượng từ Nga với giá thấp. Thổ Nhĩ Kỳ còn lợi dụng tư cách thành viên NATO để trì hoãn quá trình gia nhập của Phần Lan và Thụy Điển, khiến phương Tây vô cùng khó chịu.
Nhờ vị trí địa lý ưu việt, tài ngoại giao khéo léo và mô hình tăng trưởng kinh tế do chính phủ dẫn dắt, ảnh hưởng của Thổ Nhĩ Kỳ ở Trung Đông tăng mạnh, trở thành một mối đe dọa mới đối với Israel.
Những thay đổi lớn của Ả Rập Saudi
Sự xuất hiện liên tiếp của Iran và Thổ Nhĩ Kỳ, hai quốc gia đối đầu với Mỹ và Israel, đã khiến Mỹ và Israel gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, từ năm 2017, Trung Đông lại có thêm một người chơi mới làm xáo trộn tình hình: Ả Rập Saudi.
Kể từ những năm 1970, Ả Rập Saudi đã đóng vai trò là đồng minh trung thành của Mỹ. Ả Rập Saudi sử dụng đồng đô la làm đồng tiền duy nhất để thanh toán dầu mỏ, và Mỹ cung cấp an ninh cho Ả Rập Saudi. Hai bên hợp tác rất chặt chẽ. Mặc dù là một quốc gia Ả Rập, nhưng vì lợi ích kinh tế, Ả Rập Saudi đã chọn chiến lược thân thiện với Israel trong chính sách đối ngoại. Ả Rập Saudi đã làm trung gian hòa giải giữa Ai Cập và Israel, và không quan tâm đến các tội ác của Israel ở Palestine.
Trong thời gian dài, Ả Rập Saudi bị coi là “kẻ phản bội” trong thế giới Ả Rập vì đã hợp tác với Mỹ và Israel vì lợi ích dầu mỏ. Ban đầu, hoàng gia Ả Rập Saudi không mấy bận tâm về những lời chỉ trích này, vì họ có thể dùng lợi nhuận từ xuất khẩu dầu để mua những chiếc xe hơi sang trọng và sống trong nhung lụa. Tuy nhiên, bị chỉ trích lâu ngày, Ả Rập Saudi cũng cảm thấy mất mặt. Để xoa dịu dư luận, Ả Rập Saudi đã bỏ ra số tiền khổng lồ để tài trợ cho các tổ chức tôn giáo, trong đó có một số tổ chức mang màu sắc khủng bố của chủ nghĩa Hồi giáo nguyên thủy.
Để giữ được sự ủng hộ của Mỹ, Ả Rập Saudi luôn tuân thủ các yêu cầu của Mỹ về sản xuất dầu. Mỹ yêu cầu tăng sản lượng thì Ả Rập Saudi tăng, yêu cầu giảm thì họ giảm. Vì Ả Rập Saudi là quốc gia sản xuất dầu lớn nhất thế giới và là lãnh đạo của OPEC, Mỹ trong một thời gian dài đã gián tiếp kiểm soát nguồn cung dầu toàn cầu, và sử dụng các chu kỳ kinh tế do sự điều chỉnh nguồn cung đô la tạo ra để “thu hoạch” các khu vực như Mỹ Latinh và Đông Nam Á, thu lợi nhuận khổng lồ.
Sau khi cuộc khủng hoảng Crimea bùng nổ năm 2014, để đánh vào kinh tế Nga, Ả Rập Saudi, theo chỉ đạo của Mỹ, đã lấy lý do chống lại các công ty dầu đá phiến để thực hiện chiến lược tăng mạnh sản lượng dầu. Trong hai năm tiếp theo, sản lượng dầu của OPEC đã tăng 10%, và giá dầu quốc tế giảm từ 110 USD/thùng vào tháng 6/2014 xuống còn 25 USD/thùng vào đầu năm 2016. Với mức giá hòa vốn cho chi phí của dầu là 50 USD/thùng, Nga đã bị thâm hụt tài chính nghiêm trọng, buộc phải trải qua ba năm khó khăn.
Năm 2015, Ả Rập Saudi đã có những thay đổi lớn. Quốc vương Abdullah, người thân Mỹ, qua đời, và người kế nhiệm là em trai của ông, Quốc vương Salman. Trong giai đoạn đầu do chưa củng cố được quyền lực, Quốc vương mới của Ả Rập Saudi tiếp tục theo đuổi chính sách đối ngoại thân Mỹ như trước đây.
Tình hình đã thay đổi vào năm 2017, khi Ả Rập Saudi thay đổi chế độ kế vị. Thái tử cũ bị phế truất, và Quốc vương Salman trao ngai vị thái tử cho con trai của mình là Mohammed bin Salman (còn gọi là Tiểu Salman).
Theo truyền thống của Ả Rập Saudi, sau khi quốc vương qua đời, ngôi vị thường được truyền cho người em trai để tránh việc có một quốc vương quá trẻ tuổi, nhưng điều này lại khiến hầu hết các quốc vương đều đã lớn tuổi và không muốn thúc đẩy cải cách. Hơn nữa, Ả Rập Saudi về bản chất là một liên minh của nhiều bộ tộc, và trong quá khứ, Ả Rập Saudi gần như là một quốc gia quý tộc cộng hòa, quyền lực của quốc vương rất yếu và người kế vị phải được thảo luận và quyết định bởi các thành viên hoàng gia. Một số quốc vương thậm chí bị phế truất, vì vậy Mỹ đã dễ dàng kiểm soát chính quyền Ả Rập Saudi, khi mà các quốc vương rất dễ bị thao túng.
Nhưng Quốc vương Salman hiện tại đã quyết tâm thay đổi hiện trạng này. Ngay khi lên ngôi vào năm 2015, ông đã bổ nhiệm con trai mình, Tiểu Salman, làm Bộ trưởng Quốc phòng. Năm 2017, Ả Rập Saudi chính thức bãi bỏ chế độ kế vị anh em, thay bằng chế độ cha truyền con nối, và Tiểu Salman được phong làm Thái tử. Vì Quốc vương Salman đã cao tuổi (năm nay ông đã 88 tuổi), phần lớn việc triều chính do Tiểu Salman xử lý.
Sinh năm 1985, Tiểu Salman là một người có nhiều ý tưởng. Trong quá khứ, hoàng gia Ả Rập Saudi tiêu xài hoang phí, với hàng nghìn hoàng tử mỗi tháng nhận trợ cấp khoảng 100.000 USD, và nếu tính cả thu nhập không chính thức, mỗi năm Ả Rập Saudi phải chi khoảng 30% ngân sách để duy trì cuộc sống của hoàng gia – một gánh nặng không nhỏ. Khi lên nắm quyền, Tiểu Salman đã khởi xướng chiến dịch chống tham nhũng, tập trung vào việc chấm dứt thói xa hoa của hoàng gia, triệt phá các khoản thu nhập không chính thức và cắt giảm trợ cấp, mang lại cho ngân khố quốc gia hàng nghìn tỷ USD.
Về kinh tế, Tiểu Salman thúc đẩy phong trào bình đẳng ở Ả Rập Saudi, hạn chế thu nhập của giới giàu có, tăng trợ cấp cho người nghèo và nâng cao tỷ lệ phụ nữ có việc làm. Mặc dù Ả Rập Saudi có thu nhập cao từ dầu mỏ, nhưng khoảng cách giàu nghèo rất lớn, phần lớn tài sản quốc gia rơi vào tay hoàng gia và quý tộc, vì vậy phong trào bình đẳng của Tiểu Salman nhận được sự ủng hộ lớn từ dân chúng. Để thay đổi sự phụ thuộc quá mức của Ả Rập Saudi vào ngành dầu mỏ, ông đã đề ra kế hoạch “Tầm nhìn 2030”, xây dựng các khu công nghiệp, đẩy mạnh phát triển các công ty công nghệ cao và khuyến khích du lịch. Về mặt tài chính, Tiểu Salman đã thúc đẩy việc niêm yết Saudi Aramco trên thị trường chứng khoán, huy động được 25,6 tỷ USD, trở thành IPO lớn nhất trong lịch sử thế giới, và Aramco trở thành công ty có giá trị thị trường cao nhất thế giới, đạt 1,7 nghìn tỷ USD. Việc niêm yết Aramco không chỉ nhằm thu hút vốn từ nước ngoài và nâng cao quản lý doanh nghiệp, mà còn nhằm mục đích minh bạch hóa tài chính, loại bỏ các khoản tham nhũng trong hoàng gia.
Trước đây, vị trí quốc vương thường được kế vị theo chế độ anh em kế tục: khi quốc vương qua đời, thái tử kế vị, sau đó phó thái tử sẽ kế vị thái tử. Quốc vương đương nhiệm chỉ có quyền đề cử phó thái tử, và sau đó hội đồng hoàng gia sẽ thảo luận và thông qua.
Trong hoàng gia Ả Rập Saudi, có hai phe lớn: phe của bảy anh em thuộc dòng dõi vua khai quốc và phe của các hoàng tử không chính thống. Ngai vàng đã từng chuyển giao giữa hai phe này, dẫn đến sự chia rẽ nội bộ sâu sắc trong quá khứ, khiến quốc gia trở nên rời rạc. Khi Quốc vương Salman lên ngôi, Thái tử là người em cùng cha khác mẹ của ông, Muqrin, và Phó Thái tử là cháu trai của ông, Mohammed bin Nayef. Quốc vương Salman đã liên kết với Nayef và phe của bảy anh em để phế truất Muqrin, đưa con trai mình lên làm Phó Thái tử, và Nayef được thăng chức làm Thái tử. Hai năm sau, Quốc vương Salman lấy lý do Nayef đã lớn tuổi và phế truất ông ta, chính thức trao ngôi vị Thái tử cho Tiểu Salman. Không chỉ vậy, Quốc vương Salman còn trao luôn vị trí Thủ tướng, vốn thuộc về Quốc vương, cho Tiểu Salman, khiến Tiểu Salman trở thành người có quyền lực cao nhất ở Ả Rập Saudi.
Để củng cố quyền lực, Tiểu Salman đã liên tục bắt giữ những người có thể đe dọa đến ngôi vị của mình, bao gồm con trai của cố Quốc vương Abdullah, cựu Thái tử Nayef và người chú Ahmed, người nhận được sự ủng hộ của Anh và Mỹ. Tiểu Salman cũng bổ nhiệm nhiều chuyên gia đã được đào tạo ở phương Tây vào các vị trí quan trọng, thay thế những người thuộc hoàng gia chỉ biết đến lợi ích cá nhân. Những động thái này đã khiến Tiểu Salman phải đối mặt với sự phản đối từ các thành viên cũ của hoàng gia và sự nghi kỵ từ Anh và Mỹ.
Trong quá khứ, Mỹ có thể kiểm soát hoàn toàn chính trường Ả Rập Saudi. Vào năm 1973, Quốc vương Faisal của Ả Rập Saudi đã cố gắng thoát khỏi sự kiểm soát của Anh và Mỹ, dẫn dắt thế giới Ả Rập phong tỏa năng lượng để trừng phạt Israel. Hai năm sau, Faisal bị ám sát bởi một kẻ mắc bệnh tâm thần. Sau sự kiện này, các quốc vương Ả Rập Saudi trong một thời gian dài không dám chống lại Mỹ và luôn tuân theo chỉ đạo của Washington.
Tiểu Salman hiểu rõ lịch sử ám sát chú mình, vì vậy khi vừa lên nắm quyền, ông đã bắt đầu thanh trừng các lực lượng thân Anh và Mỹ trong nước. Vào năm 2018, nhà báo đối lập Jamal Khashoggi bị ám sát trong lãnh sự quán Ả Rập Saudi tại Thổ Nhĩ Kỳ, thi thể của ông bị phân xác. Các bằng chứng cho thấy vụ ám sát có thể do Tiểu Salman chỉ đạo. Vụ việc này đã gây ra sự phẫn nộ lớn trong dư luận phương Tây, và nhiều nghị sĩ Mỹ đã yêu cầu trừng phạt hoàng gia Ả Rập Saudi.
Tuy nhiên, lúc đó Tổng thống Mỹ là Donald Trump, người chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế và không để ý đến vấn đề ý thức hệ. Sau khi Ả Rập Saudi ký các hợp đồng trị giá hàng nghìn tỷ USD với Mỹ, Trump đã dẹp yên vụ việc này.
Tổng thống Joe Biden lại không ngồi yên được. Trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Biden từng tuyên bố sẽ biến Ả Rập Saudi thành “kẻ bị ruồng bỏ trên trường quốc tế” và can thiệp vào vấn đề tranh giành quyền kế vị ở Ả Rập Saudi, ủng hộ người chú của Tiểu Salman cạnh tranh ngai vàng. Vào thời điểm đó, giá dầu thế giới đang ở mức thấp kỷ lục, và Biden cho rằng giá trị của Ả Rập Saudi đã giảm, nên ông muốn dùng vụ án Khashoggi để giành phiếu bầu. Tuy nhiên, sự thay đổi đến nhanh chóng: hai năm sau, cuộc chiến Nga-Ukraine bùng nổ và giá dầu tăng vọt lên trên 100 USD/thùng. Lạm phát cao khiến tỷ lệ ủng hộ Biden giảm sút, buộc ông phải hạ mình đàm phán với Tiểu Salman để Ả Rập Saudi tăng sản lượng dầu, nhưng kết quả tất nhiên là bị từ chối thẳng thừng, khiến Biden rơi vào tình thế khó khăn.
Tiểu Salman luôn lo sợ rằng Mỹ sẽ tìm cách lật đổ mình, bởi Biden đã từng ủng hộ các đối thủ chính trị của ông. Kể từ năm 2017, mâu thuẫn về ý thức hệ giữa Ả Rập Saudi và Mỹ ngày càng lớn. Mỹ không thể chấp nhận việc có một vị quốc vương không biết nghe lời. Hơn nữa, hai trụ cột đã từng duy trì mối quan hệ đồng minh Mỹ-Ả Rập Saudi là hợp tác năng lượng và bảo đảm an ninh cũng đang dần sụp đổ.
Trước đây, Mỹ là khách hàng lớn nhất của dầu mỏ Ả Rập Saudi. Mỹ nhập khẩu dầu từ Ả Rập Saudi, còn Ả Rập Saudi sử dụng số tiền kiếm được để mua trái phiếu chính phủ Mỹ, giúp hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên, kể từ cuộc cách mạng dầu đá phiến năm 2010, sản lượng dầu nội địa của Mỹ đã tăng mạnh, và Mỹ ngày càng nhập khẩu ít dầu từ Ả Rập Saudi, thậm chí còn xuất khẩu dầu. Quan hệ kinh tế giữa Mỹ và Ả Rập Saudi đã chuyển từ tương hỗ sang cạnh tranh. Đặc biệt, khi Biden lên nắm quyền và thúc đẩy chính sách năng lượng xanh, Ả Rập Saudi cảm thấy bị đe dọa. Mặt khác, sau khi Biden tuyên bố rút quân khỏi Trung Đông, khả năng Mỹ cung cấp bảo đảm an ninh cho Ả Rập Saudi ngày càng giảm. Trong những năm gần đây, khi Ả Rập Saudi phải đối mặt với mối đe dọa từ lực lượng Houthi ở Yemen, nước này mong muốn Mỹ can thiệp quân sự, nhưng sau khi phải gánh chịu tổn thất ở Afghanistan và Iraq, Mỹ không muốn tiếp tục dấn thân vào vũng lầy khác, và đã từ chối yêu cầu của Ả Rập Saudi, gây ra sự bất mãn sâu sắc từ phía Ả Rập Saudi.
Trong những năm gần đây, Ả Rập Saudi ngày càng gần gũi hơn với Trung Quốc và Nga
Câu nói “kẻ thù của kẻ thù là bạn” rất đúng trong trường hợp của Ả Rập Saudi. Sau khi quan hệ với Mỹ trở nên căng thẳng, những năm gần đây, Ả Rập Saudi ngày càng xích lại gần Trung Quốc và Nga. Mặc dù Nga cũng là một quốc gia xuất khẩu dầu mỏ, nhưng Ả Rập Saudi và Nga thường hợp tác trong việc cắt giảm sản lượng để cùng đẩy giá dầu lên cao. Hơn nữa, Tiểu Salman rất ngưỡng mộ cá nhân Putin và mong muốn đi theo con đường lãnh đạo mạnh mẽ giống như Putin. Mặt khác, mối quan hệ giữa Ả Rập Saudi và Trung Quốc cũng ngày càng gần gũi, vì Trung Quốc đã thay thế Mỹ trở thành khách hàng lớn nhất của dầu mỏ Ả Rập Saudi, chiếm thị phần xuất khẩu lớn hơn cả tổng của các nước phương Tây. Quan trọng hơn, với sự trỗi dậy của Trung Quốc, Ả Rập Saudi hy vọng có thể “đặt cược” vào cả hai phía Mỹ và Trung Quốc. Nếu một ngày nào đó Trung Quốc thực sự trở thành cường quốc hàng đầu thế giới, Ả Rập Saudi sẽ có lợi thế khi đã sớm thiết lập quan hệ tốt với Trung Quốc, qua đó có thể trở thành quốc gia lãnh đạo Trung Đông.
Trong lịch sử, chiến lược “dầu mỏ – đô la” của Mỹ chủ yếu dựa vào việc thỏa thuận với Ả Rập Saudi. Sau khi Mỹ và Ả Rập Saudi đạt được thỏa thuận vào năm 1974 về việc sử dụng đồng đô la làm đơn vị thanh toán duy nhất cho dầu mỏ, đô la Mỹ mới có thể củng cố vị thế là đồng tiền dự trữ toàn cầu. Vì vậy đối với Trung Quốc, trong tương lai nếu các quốc gia vùng Vịnh do Ả Rập Saudi dẫn đầu đồng ý sử dụng một phần giao dịch dầu mỏ bằng đồng nhân dân tệ, thì triển vọng quốc tế hóa của đồng nhân dân tệ sẽ vô cùng rộng mở. Hiện tại, đồng nhân dân tệ chiếm 2% thị phần trong thanh toán quốc tế, trong khi đồng đô la chiếm 40%, do đó tiềm năng để đồng nhân dân tệ vươn lên là rất lớn.
Kể từ khi Biden nhậm chức vào năm 2021, ông đã triển khai ba chiến lược chính:
– Kích động xung đột ở châu Âu, làm bùng phát chiến tranh giữa Nga và Ukraine
– Lôi kéo các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc, và Philippines thông qua chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương để bao vây Trung Quốc
– Rút quân khỏi Trung Đông, nhằm gây ra mâu thuẫn nội bộ giữa Iran, Ả Rập Saudi và Thổ Nhĩ Kỳ.
Sở dĩ ông muốn rút khỏi Afghanistan bất chấp áp lực trong nước là vì không muốn mắc kẹt trong vũng lầy Trung Đông. Đối với Mỹ, Trung Đông là cái hố không đáy để đốt tiền. Nước này không muốn lặp lại sai lầm của Chiến tranh Iraq.
Ban đầu, chiến lược Trung Đông của Biden đã thành công, vì Ả Rập Saudi và Iran vốn có mâu thuẫn sâu sắc. Một mặt là vì Ả Rập Saudi thuộc dòng Sunni, còn Iran thuộc dòng Shiite, nên hai quốc gia này có xung đột về tôn giáo. Mặt khác, Ả Rập Saudi chủ yếu là người Ả Rập, và trong lịch sử đã từng xây dựng một đế chế Ả Rập hùng mạnh, với nhà tiên tri Muhammad sinh ra tại đây, và Mecca cùng Medina là hai trong ba thánh địa lớn nhất của Hồi giáo, bên cạnh Jerusalem. Vì vậy, Ả Rập Saudi luôn tự coi mình là người thừa kế của đế chế Ả Rập, và là quốc gia lãnh đạo của thế giới Hồi giáo.
Ngược lại, Iran là người Ba Tư, và trong lịch sử đã xây dựng những nền văn minh rực rỡ như Đế chế Ba Tư, Đế chế Parthia và Vương triều Safavid. Người Iran rất tự hào về lịch sử của mình và coi mình là người kế thừa của Đế chế Ba Tư, tự nhận có vị trí xứng đáng hơn trong vai trò lãnh đạo Trung Đông. Vì vậy, Ả Rập Saudi và Iran luôn cạnh tranh để giành vị thế “bá chủ” khu vực.
Cuộc nội chiến Yemen là nguyên nhân khiến mối quan hệ giữa Ả Rập Saudi và Iran xấu đi
Ngoài ra, Iran còn đe dọa địa chính trị đối với Ả Rập Saudi khi luôn ủng hộ lực lượng Houthi của dòng Shiite tại Yemen chống lại Ả Rập Saudi. Các mỏ dầu của Ả Rập Saudi thường xuyên bị tấn công bằng tên lửa.
Năm 2015, ngay khi vừa lên nắm quyền, Tiểu Salman đã quyết định thể hiện sức mạnh bằng việc lãnh đạo liên minh các quốc gia Ả Rập vùng Vịnh tiến hành chiến dịch quân sự chống lại lực lượng Houthi ở Yemen. Nhưng bất ngờ là, dù được trang bị toàn bộ vũ khí hiện đại từ Mỹ, quân đội Ả Rập Saudi lại không thể đánh bại lực lượng Houthi với vũ khí lạc hậu hơn. Nguyên nhân chính là do sự phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng ở Ả Rập Saudi, những binh sĩ xuất thân từ các gia đình nghèo không muốn hy sinh cho những hoàng thân giàu có, nên sĩ khí rất thấp, và nhiều binh sĩ bỏ chạy trong khi giao tranh. Vì vậy, suốt nhiều năm, Ả Rập Saudi vẫn không thể giải quyết vấn đề Houthi ở Yemen. Sự ủng hộ của Iran đối với Houthi đã khiến Ả Rập Saudi tức giận, và hai nước chính thức cắt đứt quan hệ ngoại giao vào năm 2016.
Trong suốt 8 năm, Ả Rập Saudi và Iran đã tiến hành cuộc chiến tranh ủy nhiệm ở Yemen, Syria và Lebanon, cả hai bên đều đầu tư nhiều nguồn lực nhưng kết quả lại giống như cuộc chiến giữa Iraq và Iran trước đây: không ai đánh bại được ai. Ả Rập Saudi có nguồn lực tài chính mạnh mẽ, còn Iran có dân số lớn, và cả hai bên đều cân sức với nhau.
Theo kế hoạch ban đầu của Biden, với những mâu thuẫn về tôn giáo, lịch sử và địa chính trị, Ả Rập Saudi và Iran rất khó có thể hòa giải. Cùng với sự nổi lên của Thổ Nhĩ Kỳ, Biden dự định lợi dụng sự cân bằng quyền lực giữa Ả Rập Saudi, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran để lấp đầy khoảng trống quyền lực sau khi Mỹ rút quân khỏi Trung Đông. Nhờ đó, Israel có thể lợi dụng mâu thuẫn giữa ba nước này để duy trì lợi thế ngoại giao.
Tuy nhiên, Đến năm 2023, để đối phó với sự dao động trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Ả Rập Saudi và Iran đã khôi phục quan hệ ngoại giao dưới sự trung gian của Trung Quốc. Việc xích lại gần nhau giữa Saudi-Iran đã phần nào phá vỡ chiến lược Trung Đông của Biden. Nhằm xử lý tác động của cuộc chiến Nga- Ukraine với giá dầu tăng và phục vụ mục đích bầu cử Mỹ đã thúc đẩy để ký một thỏa thuận an ninh với Ả Rập Saudi, trong đó bao gồm các điều khoản như:
– Mỹ nâng cấp Ả Rập Saudi lên thành đồng minh theo hiệp ước và cam kết cung cấp nghĩa vụ phòng thủ chính thức.
– Ả Rập Saudi đồng ý tăng sản lượng dầu để hỗ trợ chiến dịch của Đảng Dân chủ.
– Ả Rập Saudi thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Israel và tách rời khỏi công nghệ Trung Quốc.
Trong thỏa thuận này, Đảng Dân chủ đã yêu cầu Ả Rập Saudi tăng sản lượng dầu trước cuộc bầu cử Mỹ để giảm lạm phát và cải thiện tỷ lệ ủng hộ đối với Đảng Dân chủ. Tuy nhiên, việc thỏa thuận này bao gồm điều khoản thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Ả Rập Saudi và Israel có thể dẫn đến việc cô lập Iran và các đồng minh Hồi giáo Shiite. Vào tháng 10 năm ngoái, Iran và Hamas đã lên kế hoạch cho chiến dịch “Cơn Lũ Aqsa”, làm gián đoạn các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Ả Rập Saudi, dẫn đến xung đột Israel-Palestine.
Về phần xung đột Israel-Palestine, Xung đột Israel- Hezbollah hiện tại đã có nhiều bài viết đề cập đến nên tôi không cần viết lại, bạn đọc có thể tìm đọc lại để hiểu rõ hơn.
Thế giới Hồi giáo đã nhiều lần tạo ra những nền văn minh huy hoàng trong lịch sử. trong thời cận đại, các nước hồi giáo đều bị các thế lực xâm lược, trải qua những cuộc chiến tranh và sự chia rẽ đau thương. Mặc dù nhiều quốc gia Hồi giáo còn lạc hậu về kinh tế, nhưng dưới sự thúc đẩy của tinh thần tôn giáo, họ cực kỳ kiên cường. Thổ Nhĩ Kỳ đã thực hiện chính sách thế tục hóa và phương Tây hóa hàng trăm năm, nhưng phần lớn người dân vẫn kiên định với niềm tin vào Hồi giáo, đó chính là sức mạnh của sự truyền thừa.
Chiến lược của các nước phương Tây trong việc cai trị Trung Đông là dùng người Hồi giáo đánh người Hồi giáo, lôi kéo nước này để đàn áp nước kia, với mục tiêu dập tắt tư tưởng kháng cự ở Trung Đông mãi mãi. Tuy nhiên, Trung Đông giống như một cơn gió xuân thổi qua, dù Ai Cập thất bại thì vẫn còn Syria, Syria bị đánh bại thì vẫn còn Iraq, Iraq suy yếu thì vẫn còn Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và Ả Rập Saudi. Dù phương Tây có làm gì đi nữa, họ cũng không thể triệt tiêu hoàn toàn tinh thần độc lập của Trung Đông. Ngay cả khi Mỹ có thể đánh bại Ả Rập Saudi, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran, vẫn sẽ có những quốc gia Trung Đông khác tiếp tục cầm ngọn cờ kháng chiến. Nếu một ngày nào đó Trung Đông có thể đoàn kết, không có lý do gì mà họ không thể tái hiện lại thời kỳ huy hoàng của mình.