Tham gia đấu giá đất, chứng minh năng lực tài chính thế nào?
Tham gia đấu giá đất, chứng minh năng lực tài chính thế nào?
(Xây dựng) – Cơ quan của bà Trần Thị Thu Hương (Hà Nội) đã tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất để lựa chọn nhà đầu tư dự án theo quyết định đầu tư được phê duyệt thời điểm tháng 10/2023 theo quy định của Luật Đầu tư.
Ảnh minh họa. |
Hiện nay cơ quan bà Hương có vướng mắc như sau:
Điều kiện về đối tượng tham gia đấu giá quyền sử dụng đất: Đối với tổ chức, phải thuộc đối tượng được Nhà nước giao đất theo quy định tại Khoản 2, 3 và 4 Điều 55 Luật Đất đai; cho thuê đất theo quy định tại Điểm đ, e Khoản 1 Điều 56 Luật Đất đai bảo đảm các điều kiện để thực hiện dự án đầu tư theo quy định tại Khoản 3 Điều 58 Luật Đất đai, Điều 21 Luật Nhà ở năm 2014 và có năng lực tài chính theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, cụ thể:
“a) Có vốn thuộc sở hữu của mình để thực hiện dự án không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 héc ta; không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 héc ta trở lên”.
Tuy nhiên, cơ quan bà Hương đang vướng mắc về tài liệu minh chứng cho nội dung vốn chủ sở hữu đối với tổ chức được thành lập trước năm tổ chức đấu giá. Hiện nay, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật Đất đai, Luật Đấu giá tài sản không có hướng dẫn về tài liệu minh chứng cho nội dung này. Để quy định tài liệu minh chứng vốn chủ sở hữu cần vận dụng các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành hướng dẫn các luật khác liên quan, tuy nhiên các quy định để vận dụng lại đang khác nhau.
Do vậy bà Hương đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn cụ thể về tài liệu minh chứng cho nội dung vốn chủ sở hữu đối với tổ chức được thành lập trước năm tổ chức đấu giá (thời điểm tổ chức đấu giá tháng 10/2023) theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ để bảo đảm thực hiện theo quy định của pháp luật.
Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời vấn đề này như sau:
Tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai đã quy định chi tiết về điều kiện đối với người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư:
“2. Điều kiện về năng lực tài chính để bảo đảm việc sử dụng đất theo tiến độ của dự án đầu tư được quy định như sau:
a) Có vốn thuộc sở hữu của mình để thực hiện dự án không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 héc ta; không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 héc ta trở lên;
b) Có khả năng huy động vốn để thực hiện dự án từ các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức, cá nhân khác”.
Tại Khoản 1 Điều 10 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 đã được sửa đổi, bổ sung tại Điểm a Khoản 2 Điều 75 Luật Đầu tư năm 2020 như sau:
“1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã (sau đây gọi chung là doanh nghiệp), trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này”.
Tại Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 02/2022/NĐ-CP ngày 6/1/2022 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định:
“2. Đối với trường hợp nhà đầu tư được lựa chọn làm chủ đầu tư dự án bất động sản theo quy định của pháp luật thì nhà đầu tư đó phải có vốn chủ sở hữu không thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 ha, không thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 ha trở lên. Khi thực hiện kinh doanh bất động sản thì chủ đầu tư dự án phải đáp ứng điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều này.
Việc xác định vốn chủ sở hữu quy định tại khoản này được căn cứ vào kết quả báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất hoặc kết quả báo cáo kiểm toán độc lập của doanh nghiệp đang hoạt động (được thực hiện trong năm hoặc năm trước liền kề); trường hợp là doanh nghiệp mới thành lập thì xác định vốn chủ sở hữu theo vốn điều lệ thực tế đã góp theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, quy định về điều kiện phải có vốn chủ sở hữu đối với nhà đầu tư được lựa chọn làm chủ đầu tư dự án bất động sản trong Nghị định số 02/2022/NĐ-CP đồng bộ với quy định về yêu cầu chủ đầu tư phải có vốn chủ sở hữu của mình để thực hiện dự án quy định tại Điều 14 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP.
Tại Điểm c Khoản 2 Điều 9 Luật Kinh doanh bất động sản số 29/2023/QH15 quy định:
“c) Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thông qua dự án bất động sản phải có vốn chủ sở hữu không thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 ha, không thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 ha trở lên và phải bảo đảm khả năng huy động vốn để thực hiện dự án đầu tư; trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đồng thời thực hiện nhiều dự án thì phải có vốn chủ sở hữu đủ phân bổ để bảo đảm tỷ lệ nêu trên của từng dự án để thực hiện toàn bộ các dự án”.
Để có cơ sở được hướng dẫn cụ thể, đề nghị bà liên hệ với cơ quan quản lý về đầu tư, xây dựng tại địa phương để được trả lời theo đúng chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền.
Bạn đang đọc Tin tức xây dựng trên website hungday.com