Tôn Quyền – đánh trận kém nhưng trị quốc giỏi

Tháng mười 26, 2024

Thế thì cuộc đời của Hoàng đế khai quốc Đông Ngô có gì đáng chú ý? Bài viết này sẽ giải đáp thắc mắc đó.

Hai năm sau khi Tôn Quyền chào đời, loạn Khăn Vàng bùng nổ. Tôn Kiên khi ấy khởi binh đi theo Trung lang tướng Chu Tuấn dẹp loạn, bèn dời gia đình về Thọ Xuân. Mấy năm sau, anh Tôn Quyền là Tôn Sách gặp và kết giao với Chu Du, bèn đưa cả nhà về quê của Chu Du ở huyện Thư. Cũng từ đó trở đi, nhà họ Tôn kết mối giao hảo với Chu Du.

Năm 195, Tôn Sách đánh bại Lưu Do, lại cho người đón gia đình mình về Đan Dương. Tôn Quyền bấy giờ đã thành niên, cũng bắt đầu theo phục vụ dưới trướng anh trai trong nhiều chiến dịch bình định các quận phía nam Trường Giang. Lúc Tôn Quyền 15 tuổi, ông được anh trai phong làm Trưởng huyện Dương Tiễn, sau lại lần lượt được được chọn làm Hiếu liêm, Mậu tài rồi giữ việc của Phụng nghĩa Hiệu úy. Triều đình nhà Hán bấy giờ có ý muốn vỗ về Tôn Sách, nên cũng cử sứ giả là Lưu Uyển tới ban cho tước vị và quan phục chính thức. Lúc gặp mấy anh em nhà họ Tôn, Lưu Uyển rất có ấn tượng với Tôn Quyền. Ông có bảo với người khác rằng:

“Ta xem anh em họ Tôn tuy cùng tài hoa xuất chúng, thông minh thấu đạt, nhưng đều không được hưởng lộc trọn vẹn, duy người em thứ hai làm Hiếu liêm (tức Tôn Quyền), dung mạo kỳ vĩ, tư chất không tầm thường, tướng đại quý rõ rệt, tuổi lại rất thọ, ngươi hãy nhớ lời ta nói.”

Ngay từ khi còn trẻ, Tôn Quyền cũng đã tỏ rõ mình là người có năng lực, biết cách đối nhân xử thế. Ông thông minh khéo léo, thích kết giao hào kiệt, thành ra danh tiếng của Tôn Quyền không kém gì so với anh trai Tôn Sách và cha Tôn Kiên khi trước. Trong sách “Giang Biểu truyện” cũng có chép rằng:

Quyền bản tính độ lượng rộng rãi, nhân ái nhưng rất quyết đoán, thích người hào hiệp lại hay giúp đỡ kẻ sĩ, bắt đầu có tiếng tăm, đã sánh ngang với cha anh rồi. Quyền thường tham dự cùng bàn kế, Sách rất kinh ngạc về Quyền, tự cho là mình không theo kịp. Mỗi lần mời hội tân khách, Sách thường quay sang bảo Quyền rằng:

– Các ngài đây, đều là tướng của em vậy.

Kế nhiệm Tôn Sách, thủ vững Giang Đông

Năm 199, Tôn Quyền đi theo anh trai Tôn Sách tiến đánh Thái thú Lư Giang là Lưu Huân. Tôn Sách đại thắng Lưu Huân, thu được 2000 quân cùng 1000 thuyền, bèn tiếp tục tiến đánh Hoàng Tổ ở Sa Tiễn. Lưu Biểu biết tin, vội cho 5000 quân đến ứng cứu, cũng bị Tôn Sách đánh bại cả. Hoàng Tổ thua trận phải bỏ chạy, không kịp đeo theo gia quyến. Tôn Sách thu được 6000 chiếc thuyền, quân Hoàng Tổ bị giết và chết đuối đến mấy vạn người. Quân Tôn Sách thế mạnh, Hoa Hâm bấy giờ đang giữ thành Dự Chương quyết định mở cổng ra hàng. Đang lúc lực lượng phát triển mạnh mẽ thì Tôn Sách đột ngột bị ám sát năm 200 bởi thủ hạ của Hứa Cống, Thái thú Ngô Quận từng bị Tôn Sách giết. Vết thương nặng, Tôn Sách liệu chừng không qua khỏi, bèn quyết định giao trọng trách cho Tôn Quyền, lại ủy thác cho các thủ hạ phải tận lực phò tá. Tôn Quyền bấy giờ mới 18 tuổi, nhưng đã sớm bộc lộ rõ tài năng về mặt trị nước an dân. Mặc dù rõ ràng về mặt cầm quân đánh trận thì Tôn Quyền không quá giỏi, nhưng giờ Tôn Sách sắp qua đời, việc phát triển của Giang Đông phải thay đổi. Giờ không thể liên tục tấn công như trước, mà phải chú trọng bảo vệ thành quả rồi từ từ bành trướng. Với mục tiêu mới như thế, Tôn Quyền chính là người thích hợp nhất để thay thế Tôn Sách.

Năm 203, Tôn Quyền cất binh tiến đánh Hoàng Tổ, phá được thủy quân nhưng chưa chiếm được thành trì, tướng Lăng Tháo của Tôn Quyền còn bị tướng Cam Ninh của Hoàng Tổ bắn chết. Cùng lúc đó có tin báo rằng miền đông nam có loạn; Tôn Quyền buộc phải lui quân, cho tướng lĩnh đem binh dẹp loạn các nơi. Năm 207, ông lại đem quân đánh Hoàng Tổ lần nữa, bắt được nhiều dân chúng nhưng vẫn chưa thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên, Tôn Quyền lần này được lợi thêm là có Cam Ninh về hàng do bị Hoàng Tổ đối đãi tệ bạc không xứng với công lao. Cam Ninh theo về, cũng hiến kế với Tôn Quyền rằng nên gấp rút đánh lấy Kinh Châu kẻo Tào Tháo đến trước. Muốn thế, nhất định phải diệt xong Hoàng Tổ, mà việc ấy không khó do Hoàng Tổ đã già, trị quân không nghiêm lại đối đãi bạc bẽo với quân sĩ. Sau khi đánh xong Hoàng Tổ, có thể nhân đó thúc quân sang tây đánh lấy các vùng đất Sở, rồi đánh tiếp đến Ba Thục. Kế sách này của Cam Ninh có phần tương đồng với sách lược phát triển của Lỗ Túc, nhưng cụ thể hơn ở cách thực hiện. Tôn Quyền vì thế rất tán đồng với kế này, nhưng người đứng đầu các quan văn của Giang Đông là Trương Chiêu không đồng tình với lý do là hiểm họa tiềm tàng vẫn còn, nếu đại quân tây chinh có thể có biến. Cam Ninh vì thế tranh cãi gay gắt với Trương Chiêu, Tôn Quyền phải đứng ra giảng hòa. Việc tiến quân xa hơn tạm chưa bàn, nhưng mục tiêu trước mắt vẫn là phải diệt xong quân Hoàng Tổ ở Giang Hạ.

Liên kết với Lưu Bị chống Tào

Tào Tháo sau khi thu được Kinh Châu, bèn khởi đại quân rầm rộ vượt Trường Giang để tấn công Giang Đông. Trước đó, ông cũng viết thư gửi Tôn Quyền như sau:

“Gần đây ta phụng chiếu đánh kẻ có tội, cờ mao trỏ về nam, Lưu Tông chịu bó tay. Nay ta cầm tám chục vạn quân thủy bộ, đang muốn cùng tướng quân hội săn ở đất Ngô.”

Lời lẽ trong thư tuy khách sao, nhưng thực chất ngầm có ý đe dọa và khoe khoang lực lượng hùng mạnh, muốn ép Tôn Quyền phải đầu hàng nếu không sẽ bị tiêu diệt. Đối diện với đại quân Tào Tháo, quần thần Giang Đông chia làm hai phe chủ chiến và chủ hòa. Một số thủ hạ của ông như Trương Chiêu lo ngại trước sức mạnh của quân Tào, bèn muốn Tôn Quyền ra hàng để tránh họa binh đao. Tuy nhiên, đa phần các võ tướng đều không muốn hàng mà muốn quyết đánh. Hơn nữa, Lỗ Túc cũng cho rằng kể cả nếu Tôn Quyền có chấp nhận đầu hàng thì vẫn sẽ bị Tào Tháo hại, do danh vọng của ông quá lớn. Bản thân Tôn Quyền cũng muốn đánh chứ không muốn hàng, nhưng vẫn còn lo ngại quân Tào Tháo mạnh mẽ. Lúc ấy, có tin Lỗ Túc trở về cùng sứ giả bên quân Lưu Bị là Gia Cát Lượng; Tôn Quyền bèn đem quân đến Sài Tang đón tiếp và bàn bạc chuyện liên minh.

Để Tôn Quyền an tâm hơn, Lỗ Túc khuyên ông lập tức triệu Chu Du về bàn định kế sách. Chu Du đến nơi, cũng khuyên Tôn Quyền hạ quyết tâm chiến đấu, lại phân tích rõ những bất lợi của quân Tào: đó là thiếu cỏ khô cho ngựa trong mùa đông, binh sĩ phương bắc không hợp khí hậu tất sinh bệnh. Hơn nữa, Tào Tháo tuy xưng là có 80 vạn quân, nhưng kỳ thực không thể có con số ấy. Quân Tào đánh Kinh Châu nhiều nhất chỉ 15 – 16 vạn, dẫu có thu được chủ quân Kinh Châu thì cũng chỉ thêm được 7 – 8 vạn người nữa. Như vậy, đại quân của Tào Tháo chỉ hơn 20 vạn người, tuy đông nhưng gặp nhiều bất lợi, không đáng sợ. Chu Du quả quyết rằng chỉ cần 5 vạn tinh binh Giang Đông là đủ phá quân Tào. Tôn Quyền mừng lắm, bèn giao trước cho Chu Du 3 vạn quân, cùng Trình Phổ và Lỗ Túc đi trước, ông sẽ đem quân tiếp ứng đến sau. Mà giả sử nếu chưa thể phá được quân Tào ngay cũng không sợ, cứ rút lui về chỗ Tôn Quyền rồi sẽ hợp binh quyết đấu.

Năm 209, Lưu Kỳ qua đời vì bạo bệnh, Lưu Bị vì thế tự lập làm Thứ sử Kinh Châu. Ít lâu sau, vợ Lưu Bị là Cam phu nhân cũng qua đời; và để thắt chặt liên minh, Tôn Quyền gả em gái cho ông. Sau cuộc hôn nhân, Lưu Bị dâng biểu tiến cử Tôn Quyền làm Hành Xa kỵ tướng quân, kiêm Thứ sử Từ Châu. Cũng theo lời khuyên của Gia Cát Lượng, ông đích thân sang Ngô Quận gặp Tôn Quyền để đàm phán vấn đề mượn Giang Lăng làm bàn đạp phát triển thế lực. Tuy nhiên, Chu Du cực lực phản đối việc này, thế nên Tôn Quyền cũng không đồng ý với lời đề nghị của Lưu Bị. Thấy vậy, Lưu Bị trở về thành Công An, lệnh cho Quan Vũ đóng quân gần Giang Lăng gây áp lực, buộc Chu Du phải ngày đêm lo phòng thủ dù đang dưỡng bệnh. Năm 210, Chu Du qua đời, Tôn Quyền liền phong Trình Phổ làm Thái thú Nam Quận, còn Lỗ Túc thì nối Chu Du làm Đô đốc, chỉ huy binh mã.

Phân chia Kinh Châu sau trận Xích Bích

Phân chia Kinh Châu sau trận Xích Bích

Lưu Bị một lần nữa liên hệ với Tôn Quyền việc mượn Giang Lăng. Lần này, Tôn Quyền nghe theo lời khuyên của Lỗ Túc, để lực lượng của Lưu Bị chia lửa ở mặt trận phòng thủ phía bắc chống quân Tào. Hai bên đi đến thỏa thuận: Lưu Bị sẽ đổi lấy nửa quận Giang Hạ ông đang nắm giữ để lấy Giang Lăng thuộc Nam Quận. Sau đó, Tôn Quyền đổi Trình Phổ về làm Thái thú Giang Hạ. Cái chết của Chu Du năm 210 cũng khiến các kế hoạch xuất quân sang tây đánh Hán Trung và Ích Châu của Giang Đông bị dở dang. Vì vậy, Tôn Quyền tạm chuyển tầm mắt xuống phía nam, bình định những vùng còn chưa chịu thuần phục, nhất là vùng Lĩnh Nam và Giao Châu, bấy giờ thực tế do Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp quản lý.

Năm 211, Tôn Quyền cho dời trị sở về Mạt Lăng, sang năm sau thì cho đắp thành Thạch Đầu và đổi Mạt Lăng thành Kiến Nghiệp. Sở dĩ Tôn Quyền dời trị sở đến nơi đây và chọn Kiến Nghiệp làm đại bản doanh cho lực lượng của mình, cũng là vì mục đích phòng thủ và chống giữ mặt bắc. Sách lược phát triển của Đông Ngô chú trọng vào việc kiểm soát Trường Giang và các nơi hiểm yếu. Kinh Châu tuy hiện phần lớn trong tay Lưu Bị, nhưng hai bên liên minh, tạm không nói đến. Chỉ có mặt bắc cần phải lo lắng, bởi vì quân Tào đánh xuống Giang Đông, thuận lợi nhất là tiến quân qua đất Hoài Nam, tức là qua Hợp Phì. Đấy cũng là lý do mà sau khi thắng trận Xích Bích, Tôn Quyền lập tức phải đem quân vây đánh Hợp Phì, thế nhưng không thể hạ nổi. Sau đó, Tôn Quyền cũng nghe theo lời khuyên của Lã Mông mà cho xây dựng lũy phòng thủ ở Nhu Tu khẩu; mà để tiện coi giữ vùng hiểm yếu này, Kiến Nghiệp chính là nơi gần và chiến lược nhất. Trị sở mới này giúp ông cai quản tốt hơn vùng hạ lưu Trường Giang và thuận tiện cho việc liên lạc với các tướng lĩnh đóng ở các nơi.

Sau chiến dịch Nhu Tu khẩu, nhiều người dân ở lưu vực Trường Giang chạy về phía nam theo Tôn Quyền, nhiều vùng đất ven sông gần như bỏ hoang. Năm 214, Tào Tháo sai Thái thú Lư Giang là Chu Quang đến huyện Hoán nhằm củng cố quyền kiểm soát của ông ở đây. Chu Quang cho dân chúng khai khẩn trồng trọt, lại thường kích động các toán cướp nổi loạn nhằm quấy nhiễu lãnh thổ của Tôn Quyền. Lã Mông lo lắng nếu Chu Quang thành công có thể sẽ trở thành mối nguy với Đông Ngô, bèn khuyên Tôn Quyền nên cất quân đánh chiếm huyện Hoán. Quân Tôn Quyền đến nơi, các tướng nhiều người muốn đắp núi đất và làm công cụ đánh thành, nhưng Lã Mông không đồng tình. Lã Mông cho rằng vây đánh công thành mất nhiều ngày, viện binh quân Tào mà đến thì không chắc thắng được nữa. Vả lại thủy quân Đông Ngô nhân lúc trời mưa, nước sông dâng cao mà đến; nếu ở lại lâu, nước rút thì về cũng khó khăn. Do đó, Lã Mông khuyên nên lập tức công thành, Tôn Quyền cho là phải, bèn hạ lệnh tấn công. Lã Mông và Cam Ninh đốc quân đánh gấp, chỉ mất một buổi sáng đã hạ được thành, bắt sống Chu Quang cùng mấy vạn dân thường. Quân cứu viện do Trương Liêu đến không kịp, đành phải rút về. Chiếm được huyện Hoán rồi, Tôn Quyền phong cho Lã Mông làm Thái thú Lư Giang.

Phân chia Kinh Châu sau năm 214

Phân chia Kinh Châu sau năm 214

Cũng trong năm 214, Lưu Bị sau khi vào Ích Châu đã xảy ra xung đột với Lưu Chương. Cuối cùng, quân Lưu Bị chiếm được toàn bộ Ích Châu. Tôn Quyền bèn cử Gia Cát Cẩn tới đòi lại Giang Lăng theo đúng ước hẹn khi trước. Lưu Bị từ chối, lại nói rằng để khi nào lấy xong Lương Châu sẽ trả lại. Tôn Quyền nghe thế giận lắm, bèn sai Lã Mông đem 2 vạn quân đánh lấy 3 quận nam Kinh Châu là Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng; sau đó sai Lỗ Túc đem 1 vạn quân ra đóng ở Ba Khâu để đề phòng Quan Vũ. Lưu Bị ở Ích Châu nghe tin, vội quay lại Kinh Châu, sai Quan Vũ đem quân chuẩn bị cự địch. Hai bên còn chưa giao chiến thì có tin Tào Tháo đem quân chuẩn bị đánh Hán Trung; Lưu Bị thấy rằng không thể tiếp tục mâu thuẫn với Tôn Quyền, bèn giảng hòa. Hai bên cùng phân chia lại ranh giới Kinh Châu; theo đó, Lưu Bị trao cho Tôn Quyền 2 quận Trường Sa và Quế Dương vừa bị chiếm để đổi lại việc hoàn toàn làm chủ Giang Lăng. Vấn đề “mượn Giang Lăng” và Kinh Châu coi như được giải quyết xong xuôi, hai bên cùng lui quân.

Bấy giờ quân Đông Ngô đông đảo, quân Tào trong thành lo lắng, muốn thủ vững không ra đánh. Tuy nhiên, Trương Liêu cho rằng không nên làm thế. Lý do các tướng muốn thủ vững là để đợi viện binh của Tào Tháo; tuy nhiên hiện chủ quân Tào đã đến Hán Trung, muốn về Hợp Phì không thể ngày một ngày hai. Hơn nữa, đợi đến lúc quân Tào đến cứu viện thì thành đã bị hạ rồi. Vậy nhân lúc quân Đông Ngô mới đến, chưa kịp hợp binh, kéo ra đánh ngay mới có thể phá được sĩ khí địch, rồi mới thủ vững được thành. Các tướng nghe xong vẫn ngần ngại, Trương Liêu nổi giận bèn bảo rằng nếu họ còn nghi ngờ thì ông sẽ một mình quyết đánh. Lý Điển nghe thế, cảm động xin đi theo, dù bình thường hai người vốn bất hòa. Đêm đó Trương Liêu chọn lấy 800 quân tinh nhuệ, cùng Lý Điển tập kích thẳng vào doanh trại Đông Ngô. Tôn Quyền bị đánh bất ngờ, không kịp dàn trận phải rút chạy lên gò cao chống đỡ. Mãi sau biết quân Tào ít người, Tôn Quyền mới xua binh vây chặt. Trương Liêu thấy thế, lại đánh mở đường thoát ra, quân Ngô không đuổi được, sợ hãi mất vía. Trương Liêu về Hợp Phì rồi mới cho quân thủ vững, Tôn Quyền vây đánh hơn chục ngày không hạ nổi, đành phải rút quân về. Trương Liêu thấy thế bèn mở cổng thành đem quân truy kích. Quân Đông Ngô đang rút lui không kịp chống đỡ, bị đánh tan tác. Bản thân Tôn Quyền đi đoạn hậu cũng bị vây chặt, các tướng Cam Ninh và Lã Mông phải gắng hết sức chỉ huy quân sĩ chống cự. Lăng Thống thì phải cùng thân binh lăn xả vào để phá vây cứu Tôn Quyền, cuối cùng quân sĩ chết sạch, bản thân bị thương mới đưa được ông thoát thân.

Trương Liêu trong "Tam Quốc" (2010)

Trương Liêu trong “Tam Quốc” (2010)

Đầu năm 217, Tào Tháo sau khi từ Hán Trung về lại khởi binh đánh Nhu Tu khẩu lần nữa. Tôn Quyền đích thân dẫn quân đến tiếp viện cho Lã Mông. Hai bên giằng co quyết liệt, quân Ngô thủ vững nên quân Tào không cách nào phá được ải lũy Nhu Tu khẩu. Cuối cùng sau một tháng giao chiến, Tào Tháo lại rút quân, để Hạ Hầu Đôn ở lại đóng giữ Cư Sào. Tôn Quyền tuy đẩy lui được Tào Tháo, nhưng phần lớn quân lực của Tào Tháo vẫn do Hạ Hầu Đôn nắm giữ. Điều này dẫn đến thế bế tắc vì khi Tôn Quyền giữ quân ở Nhu Tu khẩu, Hạ Hầu Đôn không thể tiến quân đánh xuống phía nam; nhưng sau khi Tôn Quyền rời đi, Hạ Hầu Đôn sẽ lập tức gây chiến. Tôn Quyền thấy vậy nên sai sứ giả sang chỗ Tào Tháo giảng hòa và kết minh.

Chiếm Kinh Châu, phá vỡ liên minh

Với liên minh Lưu – Tôn, vấn đề Kinh Châu vẫn là một chuyện nhạy cảm khi hai bên đã nhiều lần xung đột ở đây. Mặc dù năm 214, Lưu Bị và Tôn Quyền đã phân chia lại ranh giới Kinh Châu lần cuối, nhưng cũng mới chỉ là giải quyết cái ngọn. Gốc rễ của mâu thuẫn Kinh Châu vẫn nằm ở chỗ: cả Lưu Bị và Tôn Quyền đều cần có Kinh Châu để thực hiện sách lược phát triển của mình. Với Lưu Bị, để thực hiện “Long Trung sách” thì cần có Kinh Châu làm bàn đạp tiến lên Trung Nguyên. Còn với Tôn Quyền cùng chủ trương kiểm soát Trường Giang và thủ vững Giang Đông thì đương nhiên Kinh Châu là nơi căn bản cần có. Khi Lã Mông nối chức Đại đô đốc đã lập tức khuyên Tôn Quyền nên tìm thời cơ mà đánh Quan Vũ chiếm Kinh Châu. Hơn nữa, ông cho rằng Quan Vũ là kẻ kiêu căng ngạo mạn, lại nắm trọng binh án ngữ ngay mặt hiểm yếu của Giang Đông, là mối họa ngay trước mắt. Nay nhân lúc binh mã Giang Đông còn cường thịnh, nên tìm cách trừ khử thì mới an tâm được. Liên minh Lưu – Tôn thực chất đã phai nhạt từ lâu, Tôn Quyền cũng nhiều lần không hài lòng với hành động của phía Lưu Bị. Hơn nữa, người chủ trương hòa hảo với Lưu Bị là Lỗ Túc nay đã qua đời, nên Tôn Quyền hết sức ủng hộ chủ trương của Lã Mông, sai ông chuẩn bị để khi có cơ hội sẽ lập tức tiến công.

Lã Mông biết tin Quan Vũ mải đánh Phàn Thành, biết rằng thời cơ sắp tới, chỉ ngại rằng quân phòng thủ Kinh Châu còn nhiều. Biết rằng Quan Vũ vẫn còn lo ngại mình, Lã Mông bèn dâng sớ bày kế, bảo Tôn Quyền rằng ông sẽ lấy tiếng đi chữa bệnh mà rời khỏi nơi trấn thủ. Tôn Quyền biết ý, bèn công khai phát hịch triệu Lã Mông trở về Kiến Nghiệp. Lã Mông về đến Vu Hồ thì gặp Lục Tốn, Lục Tốn bấy giờ bày tỏ lo ngại về chuyện ông rời nơi trấn thủ. Mặt khác, Lục Tốn cũng bày mưu rằng nên nhân lúc Quan Vũ đi xa mà cho quân sang đông đánh úp Kinh Châu. Lã Mông nghe thế, biết Lục Tốn có tài, khi về Kiến Nghiệp liền đề nghị Tôn Quyền cử Lục Tốn ra thay mình. Lục Tốn chưa có nhiều danh tiếng, Quan Vũ tất nhiên sẽ càng khinh thường và lơ là phòng bị. Tôn Quyền nghe theo, cử Lục Tốn ra trấn thủ thay Lã Mông. Quan Vũ quả nhiên không coi trọng, lại thêm Lục Tốn gửi thư tâng bốc, khuyên ông nên ra sức tập trung mặt bắc đánh Tào Tháo, nên Quan Vũ liền rút phần lớn binh lực phòng thủ để vây đánh Tương Dương – Phàn Thành. Phía Đông Ngô được tin, bèn lập tức xuất quân; Tôn Quyền cũng gửi thư cho Tào Tháo, xin được quy phục và ra quân đánh úp Quan Vũ.

Tôn Quyền sau khi giết Quan Vũ, bèn đem đầu ông đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo, ý muốn cho Lưu Bị biết rằng mình giết Quan Vũ là làm theo lệnh Tào Tháo. Tuy vậy, Tào Tháo không mắc lừa; một mặt cho hậu táng Quan Vũ, mặt khác vẫn phong Tôn Quyền làm Phiêu kỵ tướng quân, nắm chức Thứ sử Kinh Châu và được tước Nam Xương hầu. Làm như thế, Tào Tháo ám chỉ rằng Tôn Quyền giết Quan Vũ là tự ý; quả nhiên về sau khi khởi binh, Lưu Bị nhất quyết muốn sang đông đánh Tôn Quyền chứ không quan tâm mặt bắc.

Mặt bắc tạm yên, Tôn Quyền dồn sức chống đỡ quân Thục Hán. Vì Lã Mông đã bệnh mất không lâu sau khi chiếm Kinh Châu nên Tôn Quyền phong Lục Tốn làm Đại đô đốc, đem 5 vạn quân cự địch. Năm 222, Lục Tốn đại thắng trong trận Di Lăng – Hào Đình, dùng hỏa công thiêu cháy 40 doanh trại quân Thục, khiến Lưu Bị phải tháo chạy về thành Bạch Đế. Chiến dịch đông chinh của Thục Hán thất bại, hình thế chia ba thiên hạ đã định, Đông Ngô từ đó giữ vững được Kinh Châu.

Lược đồ trận Di Lăng - Hào Đình

Lược đồ trận Di Lăng – Hào Đình

Hoàng đế Đông Ngô

Tôn Quyền tuy ngoài mặt thần phục nước Ngụy, nhưng kỳ thực đó chỉ là kế sách để ông có thể tập trung chống lại quân đông chinh của Thục Hán. Khi trước lúc Tào Phi phong cho Tôn Quyền làm Ngô vương, có yêu cầu ông đưa con trưởng Tôn Đăng sang làm tin; thế nhưng Tôn Quyền nhiều lần khước từ. Việc này khiến Tào Phi tức giận, thế nên vào tháng 9 năm 222, nước Ngụy xuất quân đánh Đông Ngô. Tào Phi chia quân làm 3 hướng, lần lượt tấn công vào Đỗng Khẩu, Nhu Tu khẩu và Nam Quận. Tôn Quyền cũng cử quân ra chống giữ hơn một tháng trời. Tuy vậy, ông lo ngại các vùng phía nam có thể thừa cơ nổi loạn, nên lại gửi thư sang cầu hòa với Tào Phi, xin được gửi Thừa tướng Tôn Thiệu và Trương Chiêu sang thay cho con trai. Tuy nhiên Tào Phi không cho, nhất quyết đòi Tôn Quyền phải đưa con sang làm tin thì mới lui binh. Việc này làm Tôn Quyền tức giận, ông bèn tự đặt niên hiệu là Hoàng Vũ, tức là ngầm tỏ ý ly khai, không thuần phục nước Ngụy nữa; sau đó đích thân đem binh ra tiếp viện.

Cũng trong năm 223, Lưu Bị sau khi thua trận đã có động thái giảng hòa với Tôn Quyền. Khi ông qua đời có trao đại quyền cho Thừa tướng Gia Cát Lượng, hai bên Lưu – Tôn một lần nữa liên minh cùng chống lại nước Ngụy. Trong hai năm 224 và 225, Tào Phi hai lần thân chinh đánh Ngô, nhưng đều không thành công. Nhất là lần xuất chinh năm 225 vào mùa đông, nước sông Trường Giang đóng băng khiến thuyền chiến không vào được. Thấy cảnh ấy, lại thêm việc quân Đông Ngô phòng thủ vững vàng, Tào Phi đã phải lui binh mà than rằng: “Là trời cố tình ngăn cách nam bắc vậy!” Đến năm 226, khi Tào Phi qua đời, Tôn Quyền cũng tấn công Giang Hạ, nhưng không đánh hạ được thành do Văn Sính trấn thủ, cuối cùng ông cũng buộc phải rút quân.

Năm 228, Đông Ngô giành được một thắng lợi nhỏ trước Ngụy, khi Tôn Quyền sai Chu Phường giả vờ đầu hàng Tào Hưu. Tào Hưu mắc mưu, dẫn quân tiến về phía nam để thu hàng Chu Phường; giữa đường bị trúng mai phục của Chu Phường và Lục Tốn. Quân Ngụy thiệt hại nặng, nhưng may được Giả Quỳ đem quân cứu viện tới kịp mà về được. Nhân việc này, Thừa tướng Gia Cát Lượng bên Thục Hán bèn xuất quân bắc phạt đánh Ngụy, bắt đầu các chiến dịch liên tiếp, thường được gọi là “Lục xuất Kỳ Sơn”.

Lãnh thổ Tam quốc

Lãnh thổ Tam quốc

Tháng 6 năm 229, Tôn Quyền tự xưng Hoàng đế, cải niên hiệu thành Hoàng Long; sau đó truy tôn cho cha mình Tôn Kiên làm Vũ liệt Hoàng đế, truy tôn cho anh trai Tôn Sách làm Trường Sa Hoàn vương. Ông cũng lập con cả Tôn Đăng làm Hoàng thái tử, lại phong con trai Tôn Sách là Tôn Thiệu làm Ngô hầu. Việc Tôn Quyền xưng đế khiến triều đình Thục Hán nổi giận, vì cho rằng hành động này là ngang nhiên phá bỏ minh ước. Nhiều đại thần Thục Hán cho rằng việc Tôn Quyền xưng đế là phản lại nhà Hán mà họ đang tiếp nối và đều đòi đánh Ngô. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng phản đối việc hủy liên minh và đánh Ngô, vì ông biết rõ nếu Thục – Ngô giao tranh thì sẽ thành miếng mồi ngon cho Ngụy. Gia Cát Lượng sai sứ sang chúc mừng Tôn Quyền, lại cùng ký một hiệp ước liên minh khác, chủ yếu vẫn xoay quanh việc hai nước giúp nhau chống Ngụy và nếu thành công thì cùng chia đất đai Trung Nguyên. Cuối năm này, Tôn Quyền chính thức cho dời đô về Kiến Nghiệp.

Có lẽ vì lo ngại việc Tôn Quyền dần kém minh mẫn nên năm 232, Thái tử Tôn Đăng từ Vũ Xương về Kiến Nghiệp, trao mọi việc lại cho Đại đô đốc Lục Tốn. Trong năm này, Tôn Quyền lại lần nữa phạm sai lầm. Ông sai hai tướng Chu Hạ và Bùi Tiềm đi thuyền vượt biển đến Liêu Đông để mua ngựa của Công Tôn Uyên, mục đích chính là nhằm mua chuộc để Công Tôn Uyên làm loạn nước Ngụy. Tuy nhiên, Ngu Phiên can ngăn và cho rằng việc này không có lợi. Tôn Quyền nổi giận, đày ông đến quận Thương Ngô. Chu Hạ và Bùi Tiềm quả nhiên bị quân Ngụy đón đánh trên đường về, cả hai đều bị giết. Tôn Quyền lúc biết tin mới hối hận, định triệu Ngu Phiên về thì lúc ấy ông đã mất.

Tạo hình Tôn Quyền trong series game "Romance of the Three Kingdoms"

Tạo hình Tôn Quyền trong series game “Romance of the Three Kingdoms”

Năm 233, Công Tôn Uyên cử sứ giả đến dâng biểu xưng thần với Đông Ngô. Tôn Quyền mừng lắm, quyết định phái các tướng Trương Di, Hứa Yến và Hạ Đạt đem 1 vạn quân cùng sứ giả theo về, đem theo lễ nghi phong cho Công Tôn Uyên làm Yên vương. Quần thần hết sức can ngăn, cho rằng chưa nên hoàn toàn tin tưởng Công Tôn Uyên, Trương Chiêu cũng cho rằng giả sử Công Tôn Uyên không thật lòng thần phục, nếu lại tráo trở thì Ngô lại thiệt hại. Tôn Quyền nổi giận, vẫn cử quân đi mà không nghe ai khuyên bảo. Quả nhiên các tướng Ngô đến nơi đều bị Công Tôn Uyên đem chém mang đầu nộp cho Ngụy đế Tào Duệ. Nghe được tin này, Tôn Quyền rất tức giận và muốn ngay lập tức thân chinh đánh Công Tôn Uyên. Lúc đầu, ngay cả Lục Tốn cũng không thể ngăn cản ông, nhưng sau khi quần thần nhiều người dâng biểu can gián, Tôn Quyền cũng nghe theo. Để bày tỏ lòng thành, ông đích thân tới nhà Trương Chiêu để xin lỗi.

Năm 238, tướng nước Ngụy là Tư Mã Ý đem quân đánh Liêu Đông, Công Tôn Uyên bèn cầu cứu Tôn Quyền. Dù vẫn thù Công Tôn Uyên, Tôn Quyền nhận thấy vẫn có thể lợi dụng tình hình để đánh Ngụy, do đó ông không bác bỏ lời cầu cứu ngay. Tuy nhiên, vì Tư Mã Ý nhanh chóng đánh bại Công Tôn Uyên, Tôn Quyền không kịp cử quân bắc phạt theo kế hoạch.

Năm 239, Tào Duệ qua đời, Ngụy đế Tào Phương còn nhỏ, được quần thần phụ chính. Do đó đầu năm 241, Tôn Quyền muốn xuất quân đánh Ngụy. Thế nhưng ông không nghe lời khuyên của Thái thú Linh Lăng Ân Trát là liên minh với Thục giáp công Ngụy từ 4 hướng. Chiến dịch sau đó cũng không thu được thành quả gì, quân Ngô bại trận phải lui quân.

Năm 248, ở các quận Giao Chỉ và Cửu Chân có loạn (theo sử Việt thì thủ lĩnh cuộc nổi loạn này là Triệu Thị Trinh). Tôn Quyền bèn cử Lục Dận là cháu họ Lục Tốn làm Thứ sử Giao Châu đem quân bình định, chiêu hàng hơn 5 vạn nhà.

Năm 251, Tôn Quyền lập mẹ Thái tử Tôn Lượng là Phan phu nhân làm Hoàng hậu. Ông cũng muốn triệu phế Thái tử Tôn Hòa về do thấy con mình không có lỗi, nhưng bị những người ủng hộ Tôn Lượng phản đối. Tôn Quyền bấy giờ già yếu, mà Thái tử còn nhỏ, nên ông muốn ủy thác một người tài năng để phò tá. Có người tiến cử Đại tướng quân Gia Cát Khác là con Gia Cát Cẩn, vì người này nhiều lần cầm quân dẹp loạn thành công, có danh tiếng. Tôn Quyền vẫn lo rằng Gia Cát Khác kiêu ngạo cứng rắn, về sau tất có chuyện, nhưng bấy giờ ít ai thích hợp, nên ông vẫn cho triệu Gia Cát Khác về, phong làm Thái tử Thái phó.

So với hai người lập nên nền móng của Ngụy và Thục Hán là Tào Tháo – Lưu Bị thì quả thực Tôn Quyền ít nổi tiếng hơn hẳn. Thực ra trong một thời kỳ loạn lạc như Tam Quốc, tất nhiên những nhân vật có nhiều chiến tích trên chiến trường sẽ nổi danh hơn. Trong khi đó, Tôn Quyền vẫn thường được đánh giá là không giỏi binh đao mà giỏi việc cai trị hơn. Ngay cả Tôn Sách lúc lâm chung phó thác cơ nghiệp cho ông cũng vì lý do này, và đã đánh giá Tôn Quyền rằng:

Cất bộ chúng Giang Đông, quyết cơ giữa vùng Lưỡng Trần, cùng thiên hạ tranh giành, em không bằng ta; nhưng tiến cử người hiền nhậm dụng người tài, khiến họ đều dốc lòng bảo vệ Giang Đông, ta không bằng em.

Thế nhưng như đã phân tích rõ ở trên, sách lược phát triển của Giang Đông thời điểm đó buộc phải có Kinh Châu để kiểm soát hoàn toàn Trường Giang. Tôn Quyền tự biết binh mã Giang Đông không nhiều và tinh nhuệ được bằng binh mã Trung Nguyên; lợi thế của ông hầu như chỉ nằm ở địa thế Trường Giang và thủy quân tinh nhuệ. Bởi vậy, lấy Kinh Châu là việc nhất thiết phải làm. Và những việc như quay sang hòa hoãn với Tào Tháo, sau này lại xưng thần với Tào Phi, cũng chỉ xuất phát từ lợi ích tạm thời, chứ Tôn Quyền vẫn luôn có tham vọng tranh bá một phương. Những việc Tôn Quyền làm tất nhiên phải vì lợi ích của Giang Đông đã, bởi vậy cũng nên đánh giá ông một cách khách quan và công bằng hơn.