Từ Tân Thế Giới đến Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ – Nguồn gốc của đất nước tự do
Nhắc đến Hoa Kỳ, chúng ta nghĩ đến điều gì? Một đất nước giàu có, hùng mạnh về cả quân sự và kinh tế? hay một đất nước với một cụm từ rất nổi tiếng trên thế giới-”Giấc mơ Mỹ “? Có lẽ sẽ có rất nhiều từ khóa sẽ hiện ra trong đầu của mỗi người đọc nhưng tôi tin rằng luôn có một đặc tính mà ai khi nhắc đến Mỹ đều sẽ nói đến, đó là Tự do. Vâng, một đất nước luôn tự hào là một nền dân chủ hùng mạnh, một đất nước luôn phát biểu trước thế giới rằng mình là một nước tự do, dân chủ và độc lập. Nhưng, những điều này từ đâu ra? Có phải nước Mỹ sinh ra đã có những thứ độc lập, tự do như vậy hay không? Điều gì khiến cho họ được tôn trọng thậm chí tôn vinh lên làm biểu tượng của sự tư do đến như vậy? Trong bài viết này (và một vài bài sau) tôi sẽ cố gắng giới thiệu các bạn những thông tin quan trọng giải thích vì sao Mỹ lại luôn gắn liền với sự độc lập và tự do dân chủ. Họ đã đánh đổi những gì để có được những điều thế giới ngưỡng mộ như ngày nay, chúng ta hãy cùng tìm hiểu nhé.
Chỉ đến khi Christopher Columbus, một nhà hàng hải người Ý đã “đi nhầm” đến đây thay vì đi đến Ấn Độ, một “tân thế giới” mới được mở ra với các nhà hàng hải châu Âu (Cụ thể hơn khi đó Columbus đang trong quá trình tìm một con đường đi đến Ấn Độ gần hơn hải trình trước đó mà các tàu thuyền châu Âu vẫn thường di chuyển, cho nên ông đã thử thay vì đi về phía Đông Châu Âu rồi đi đến Ấn độ, ông đã chọn đi về hướng ngược lại băng qua Đại Tây Dương với mục đích rút ngắn hành trình. Nhưng vì các tính toán sai về địa lý và hàng hải đã khiến ông không ngờ rằng nơi mình đặt chân đến không phải là Ấn Độ mà là một vùng đất hoàn toàn mới). Tuy nhiên, dù đã phát hiện ra một vùng đất khác lạ với những gì đoàn thủy thủ của mình vẫn thường đến, Columbus vẫn không hề biết về sự tồn tại của một lục địa mới mà chỉ nghĩ mình đã đến một khu vực khác của Ấn Độ (điều này được thể hiện rất rõ trong lá thư gửi vua Ferdinand và hoàng hậu Isabella của Tây Ban Nha rằng “On the thirty-third day after leaving Cadiz I came into the Indian Sea” tạm dịch là trong ngày thứ 33 rời khỏi đảo Cadiz, tôi đã đến Ấn Độ Dương), sự phát hiện này của Columbus và thủy thủ đoàn đã là quá đủ để về sau các quốc gia như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan và đặc biệt là Anh đến với tân thế giới này để thuộc địa hóa. Hãy tập trung vào người Anh và tua nhanh thời gian một chút đến thế kỷ 16!
Người Anh tham gia cuộc chơi
Thời điểm ban đầu, người Anh không coi Châu Mỹ (hay cụ thể hơn là Bắc Mỹ) là một miếng bánh ngon cho nền kinh tế của mình, họ coi đây là sân chơi của Tây Ban Nha và Pháp suốt gần 1 thế kỷ. Đến năm 1607, người Anh mới bắt đầu với cuộc thuộc địa hóa đầu tiên với mục đích khi đó đa phần có nhiều điểm tương đồng với những quốc gia Châu Âu đi trước bao gồm kinh tế (tìm nguồn vàng bạc và tài nguyên quý hiếm mới), dân số (sự bùng nổ dân cư tại các đất nước châu Âu thời điểm đó đang tạo áp lực cho một nơi ở mới rộng hơn) và bệnh dịch (tàn dư của dịch bệnh cái chết đen làm cho người dân châu Âu muốn tìm một nơi ở an toàn hơn),v.v. Họ bắt đầu với một khu vực mang tên Jamestown tại tiểu bang Virginia hiện nay với nhiều gian nan nhưng sau đó là nền tảng cho một cuộc mở rộng lãnh thổ thuộc địa của người Anh với 13 bang thuộc địa mà chúng ta vẫn hay biết (Virginia (1607), Massachusetts (1620), New Hampshire (1623), Maryland (1632), Connecticut (1636), Rhode Island (1636), Delaware (1638), North Carolina (1653), South Carolina (1663), New York (1664), New Jersey (1664), Pennsylvania (1681), Georgia (1732)).
Không chỉ có Anh, một số các khu vực khác tại Hoa Kỳ hiện nay bị các nước châu Âu khác thiết lập thuộc địa (như New York (khi đó gọi là New Amsterdam) của người Hà Lan hay vùng đất trải dài từ thung lũng Mississippi, vùng Ngũ Đại Hồ đến vịnh Mexico, bao gồm các bang như Louisiana, Missouri, Illinois, Michigan, Wisconsin, Minnesota, và một phần Florida cùng nhiều bang khác dọc theo sông Mississippi trước kia thuộc quyền chiếm đóng của người Pháp hay các tiểu bang thuộc Tây Nam nước Mỹ thuộc quyền sở hữu của Tây Ban Nha) nhưng các thuộc địa của người Anh vẫn được cho là có hoạt động sôi nổi và tập trung nhất tại khu vực Hoa Kỳ trong khi các quốc gia châu Âu khác phân tán tại các khu vực ở Canada, Mexico và Nam Mỹ thì người Anh với một mảnh đất dù nhỏ nhưng vẫn tạo ra ảnh hưởng rất lớn tại Bắc Mỹ thời điểm đó và sau này.
Tại sao chỉ có người Anh mới thực hiện chính sách này và là đặc trưng của Anh tại Bắc Mỹ? Khi tiến hành thuộc địa hóa các tiểu bang, hoàng gia và chính phủ Anh không trực tiếp làm điều này mà các công ty thương mại, nhà đầu tư các nhân là những đối tượng thực hiện (khác với các nước châu Âu khác sử dụng vốn và tài nguyên của vua và hoàng hậu nước đó đầu tư vào các chuyến thuộc địa hóa châu Mỹ điển hình như công ty Massachusetts Bay, doanh nghiệp đã được chính phủ ủy quyền để đi thuộc địa hóa bang Massachusetts. Chính sự “tư nhân hóa” quá trình thuộc địa này đã biến các khu vực thuộc địa của Anh ít lệ thuộc và bị kiểm soát bởi hoàng gia mẫu quốc. Thêm vào đó, vì mục tiêu của người Anh khi này chủ yếu đó là phát triển kinh tế từ thuộc địa nên sẽ rất tốn kém để có thể trực tiếp quản lý và điều hành một khu vực mà phải tốn hơn 2 đến 3 tháng để liên lạc cho nên người Anh đã sử dụng chính sách nới lỏng về chính trị và thương mại. Ngược lại, các quốc gia châu Âu khác như Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sử dụng chính sách quản lý thuộc địa tập trung, thắt chặt với mục tiêu chiếm đóng lãnh thổ và truyền bá tôn giáo, cho nên cần sự kiểm soát chặt chẽ từ các mẫu quốc này.
Khi con cừu nào đủ lông cũng phải vào chuồng để xén
Sau cuộc chiến dài hơi này, Anh khi này sở hữu được rất nhiều vùng đất đai, đá bay Pháp ra khỏi vùng Bắc Mỹ để Anh và Tây Ban Nha chia nhau đất đai trong đó người Anh nắm giữ Florida (kết quả thỏa thuận trao đổi Cuba cho Tây Ban Nha tại Hiệp ước Paris 1763), Quebec và Montreal của Canada, Tây dãy Appalachians (bao gồm Thung lũng sông Ohio và khu vực từ dãy Appalachians đến sông Mississippi) từ tay Pháp. Có thể nói, Anh khi này đã trở thành “địa chủ” tại Bắc Mỹ nhưng nó khiến hoàng gia và chính quyền mẫu quốc trở nên rất khó khăn trong việc cân bằng lợi ích giữa các bên thuộc địa của mình. Một bên là thổ dân da đỏ ở những khu vực vừa mới chiếm được và một bên là những người dân trong 13 bang thuộc địa trước đó đang có nhu cầu mở rộng và di cư về phía Tây do áp lực về dân số ở khu vực sống khi đó dần trở nên chật chội và họ đã dần tiến hành các cuộc mở rộng phạm vi thuộc địa từ trước cả chiến tranh Pháp Ấn, nhưng sau khi chiến tranh kết thúc, mẫu quốc đã phải cân bằng lợi ích với thổ dân da đỏ bằng cách ngăn cản người dân ở 13 bang thuộc địa không được mở rộng về phía Tây (đây như một hành động đầu tiên đi ngược lại với đặc tính ưa tự do và độc lập của những thuộc địa vốn hình thành từ chính sách nới lỏng của mẫu quốc từ trước giờ).
Các đạo luật về thuế – phương tiện vắt kiệt thuộc địa của mẫu quốc
Sau cuộc chiến tranh 7 năm tốn kém mà Anh đã tham gia, không chỉ dừng lại ở mặt địa chính trị; dẫu có được chiến thắng đậm đà, cuộc chiến đã khiến cho nợ công của nước Anh tăng từ 74 triệu Bảng vào 1766 lên 133 triệu Bảng sau đó 7 năm. Trước đó thì mẫu quốc đã thả tự do về thương mại về thuế cho các thuộc địa nhưng sau cuộc chiến tranh mà trước đó vận hành bằng thuế của người dân ở mẫu quốc, hoàng gia vấp phải sự phẫn nộ rất lớn của người dân nên họ đã tiến hành quá trình “vắt sữa” thuộc địa bằng rất nhiều thứ thuế.
Các đạo luật “cơ bản”
Đầu tiên, trước cả chiến tranh 7 năm, đạo luật Đường mật (Molasses Act) – 1733 được nước Anh ban hành với các thuộc địa về 2 sản phẩm chính là mật đường và rượu rum nhập khẩu, nhắm vào ngành công nghiệp chế biến đường và rum ở các thuộc địa; Dẫu vậy đạo luật này đã không được tiến hành quá gắt gao nhưng nó cũng đã tạo ra được một số làn sóng phẫn nộ đầu tiên về thuế khi nó được thực thi.
Với rất nhiều loại thuế và đạo luật yêu cầu đến từ mẫu quốc là như vậy, nhưng “giọt nước làm đầy ly” đối với người dân thuộc địa chính là Đạo luật thuế tem (Stamp Act) – 1765 nơi chính quyền Anh yêu cầu tất cả các sản phẩm in ấn bao gồm báo, tạp chí, văn bản pháp luật đều phải được dán tem để hải quan thu thuế với mục đích được đưa ra đó là duy trì quân đội và bộ máy hành chính ở thuộc địa. Đạo luật này đồng nghĩa với việc những giới nhà báo, luật sư… đều sẽ phải trả thuế nếu muốn dùng tài liệu một cách hợp pháp.
Nguồn gốc của câu nói này đến từ lập luận của chính quyền thuộc địa rằng họ không hề có đại diện trong quốc hội của Anh dẫn đến các quyết định về ban hành thuế chưa bao giờ được chính quyền thuộc địa cân nhắc và cho ý kiến của mình, điều này khiến họ bất bình vì không biết số tiền phải nộp đó sẽ được sử dụng vào đâu và họ không bao giờ có quyền biểu quyết về vấn đề này. Đại biểu Patrick Henry tại bang Virginia còn phát biểu rằng việc đánh thuế không cần đại diện là một sự đe dọa với sự tự do của các thuộc địa; Quốc hội nơi đây cũng tuyên bố người dân Virginia có quyền được hưởng tất cả những quyền lợi như người Anh tức chỉ có những người do dân họ bầu ra mới có quyền thu thuế dân.
Thứ hai, về sắc tộc, những người dân ở thuộc địa Bắc Mỹ và Ấn Độ có những sự khác nhau rõ ràng dẫn đến sự khác nhau về đòi hỏi quyền lợi. Trong khi Ấn Độ là những người dân bản địa, sắc tộc khác với những người quản lý thuộc địa là người da trắng châu Âu nên việc họ luôn coi người dân ở Ấn Độ chỉ là những thực thể thấp kém hơn, bên kia bán cầu tại Bắc Mỹ, những người sinh sống ở thuộc địa có 2 nhánh là nhóm người thổ dân ở Bắc Mỹ lâu đời tuy nhiên không ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển thuộc địa ở đây, nhóm người chính đóng góp vào sự phát triển của thuộc địa là những người dân Anh da trắng di cư đến để lập nghiệp cho nên họ luôn tự hào mình là công dân của đất nước vĩ đại, là người có quyền tương đương không khác gì ở mẫu quốc nên họ có quyền được đưa ra các ý kiến bảo vệ quyền lợi của mình (Chi tiết này là hoàn toàn có cơ sở khi nhiều Hiến chương của nhà vua Anh ngày trước đã khẳng định rằng việc người dân Anh đi khai hoang, thuộc địa hóa và định cư tại các thuộc địa của Anh sẽ không đồng nghĩa với việc đánh mất quyền của công dân Anh mà còn hưởng đầy đủ thậm chí là hơn. Ví dụ như hiến chương Virginia (được ban bố trong 3 lần 1606, 1609, 1612) tuyên bố rằng những người dân Anh sống tại các vùng thuộc địa được hưởng đầy đủ Quyền tự do, Đặc quyền và quyền miễn trừ truy tố trong bất kỳ lãnh thổ nào của nước Anh (Bản gốc “ All and every the Persons being our Subjects, which shall dwell and inhabit within every or any of the said several Colonies and Plantations… shall have and enjoy all Liberties, Franchises, and Immunities within any of Our other Dominions, to all Intents and Purposes, as if they had been abiding and born within this our Realm of England.”) hay hiến chương Massachusetts Bay 1629 dành cho chuyến thuộc địa hóa tiểu bang Massachusetts của công ty cùng tên với hiến chương trình bày rằng những nhà thám hiểm của Anh được hưởng mọi quyền tự do và miễn trừ như các thần dân tự do và hợp pháp như các con dân ở mẫu quốc (Bản gốc: “The said Adventurers and their Successors… shall have and enjoy all Liberties and Immunities of free and natural Subjects, within any of the Dominions of Us, our Heirs and Successors, as if they and every of them were born within the Realm of England.”).
Vào năm 1767, tước mâu thuẫn và sự phản đối tình trạng sưu cao thuế nặng ở trong nước, bộ trưởng Tài chính Anh Charles Townshend, xây dựng một chương trình tài khóa mới với mục tiêu giảm thuế của người Anh bằng cách thu thuế triệt để vào ngành thương mại của Mỹ.
Cụ thể, mẫu quốc yêu cầu đánh thuế cực cao vào các mặt hàng nhập khẩu từ Anh vào thuộc địa, các mặt hàng được nhắm đến có đặc điểm khan hiếm ở thuộc địa và gần như khó sản xuất mà phải nhập khẩu như giấy, thủy tinh, chì, chè… Thêm một cái trớ trêu nữa đó là việc đánh thuế lần này đi thẳng vào các mặt hàng do nước Anh sản xuất, tức Anh là nhà cung cấp chúng và chính quyền Anh có toàn quyền áp thuế tùy thích vào các mặt hàng này; Điều này đồng nghĩa quốc hội đã đánh gãy được lập luận của chính quyền thuộc địa khi giờ đây không cần phải áp thuế vào thuộc địa nữa, không thể dùng khẩu hiệu no taxation without representation. Đạo luật này như một đòn trừng phạt hơn là một chính sách “vắt sữa” nền kinh tế khi nó gần như khiến các mặt hàng trên khi đi vào thuộc địa sẽ gặp rất nhiều khó khăn do chính phủ dựng nên hàng rào thuế quá dày. Đạo luật Townshend ảnh hưởng đến người dân thuộc địa đến mức họ phải các sản phẩm tự cung tự cấp như quần áo bằng vải dệt bằng sợi tự se, giấy tự chế hay tìm thức uống khác thay thế trà (điều mà tôi nghĩ người Anh ở thuộc địa không thích lắm). Dù cho khác với đạo luật thuế tem khi nó không gây ra phẫn nộ diện rộng như trước khi mọi người vẫn có thể tự cung tự cấp sản phẩm nội địa, nhưng không tránh khỏi một số khu vực nổi loạn mạnh mẽ phản đối đạo luật này như khu vực Boston, nơi sự phẫn nộ hóa thành bạo lực.
Sau 3 năm sống trong sự yên bình, công ty Đông Ấn (một công ty thương mại thế giới hùng mạnh) đang lâm vào tình trạng tài chính khó khăn phải sang cầu viện nước Anh để được độc quyền xuất khẩu chè sang lục địa. Chính phủ mẫu quốc quyết định cho phép công ty Đông Ấn phân phối trực tiếp cho người bán lẻ mà không cần thông qua các lái buôn thuộc địa. Điều này làm ảnh hưởng đến sự chênh lệch giá so với cả những mặt hàng chè hiện đang buôn lậu và trốn thuế tại thuộc địa, có nguy cơ làm cho công việc làm ăn của các lái buôn tại đây gặp vô số bất lợi. Đây không chỉ là hành động gây mất cân bằng giá trong thị trường mà còn là hình ảnh một công ty nước ngoài độc quyền cả một nền buôn bán chè của người dân nội địa làm cấp tiến kích động nên các phong trào chống đối giành độc lập. Các lái buôn bắt đầu hợp sức lại và đe dọa các lô hàng chè trên tàu chở từ bên kia Đại Tây Dương rằng hoặc trả hàng về nước Anh hoặc chúng sẽ bị bốc dỡ lại vào kho nhằm không cho chúng được buôn bán trong thị trường thuộc địa. Dẫu các phong trào chống đối các đại lý của công ty Đông Ấn diễn ra trên khắp các hải cảng dọc bờ Đại Tây Dương của Mỹ nhưng riêng tại Boston, các nhân viên tại đây đã bất chấp cho hàng cập bến bằng tàu biển.
Các đạo luật cưỡng bức
Mở đầu là đạo luật Boston, yêu cầu đóng cửa cảng Boston cho đến khi tất cả số chè bị ném xuống sông kia được giải quyết hoàn toàn. Đây như một bản án cận tử cho một khu vực vốn sống bằng giao thương và xuất nhập khẩu, khống chế vào huyết mạch khiến cho khu vực cảng biển này gần như thất thu hoàn toàn. Ngoài ra trong quá trình cử quân đến của Hoàng gia, chính quyền Anh cũng ban hành Đạo luật Hậu cần yêu cầu chính quyền thuộc địa phải cung cấp đầy đủ chỗ ăn chỗ ngủ cho lính của Hoàng gia, thậm chí bắt buộc phải sử dụng cả nhà ở của dân nếu không thể đáp ứng và binh lính có toàn quyền đuổi dân ra khỏi nhà của họ để cư trú.
Cụ thể hơn, về lãnh thổ, đạo luật Quebec ban hành trong bối cảnh biên giới của vùng Quebec tại Canada đang mở rộng xuống phía Nam tới vùng sông Ohio và Mississippi (nơi mà ngày nay nằm trên các bang Illinois, Indiana, Michigan, Ohio, Wisconsin và một phần của Minnesota). Đây là khu đất mà cả 2 phía là thuộc địa của Mỹ và vùng thuộc địa Quebec đều muốn nắm giữ do tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng động thái cho phép phần thuộc địa ở Canada tiến hành sáp nhập cũng là một nước đi cho thấy một hàng rào vả thẳng vào mặt của người dân thuộc địa tại Mỹ rằng không được xê dịch dù chỉ một tấc về phía Tây và Tây Bắc.
Đại hội lục địa lần thứ nhất (The First Continental Congress)
Đại hội này được tổ chức vào ngày 05/09/1774 ở Philadelphia dưới sự yêu cầu của hội đồng thị dân Virginia. Đại hội gồm 55 đại diện của gần như đầy đủ các bang thuộc địa trừ bang Georgia. Tại cuộc thảo luận kéo dài hơn một tháng, các đại biểu đã cho ra những chi tiết đầu tiên về thái độ, chiến lược và cơ sở cho một cuộc cách mạng chưa từng có tiền lệ. Tôi xin phép được lược qua như sau:
Thứ nhất, hội nghị cho rằng một tình thế rất khó giải và đòi hỏi sự tỉ mỉ cao độ đó là việc cân bằng giữa việc ngoại giao với chính phủ Anh nhằm xin quyết định nhượng bộ của mẫu quốc và khả năng thể hiện một thái độ tương đối trung lập, không quá lộ ra những tư tưởng cấp tiến hay tinh thần độc lập dân tộc để có thể duy trì được lòng tin của những đối tượng còn giữ thái độ trung lập (khi này vẫn là đông đảo) tại thuộc địa.
Tuy nhiên, điều có sức ảnh hưởng lớn nhất và quan trọng nhất của đại hội lục địa lần thứ nhất này đó chính là quyết định thành lập Hiệp hội lục địa (Continental Association) với rất nhiều mục đích như kêu gọi tẩy chay hàng nhập khẩu từ Anh, xây dựng các ủy ban điều tra hải quan nhằm thắt chặt thương mại và đặc biệt là đứng lên lãnh đạo thuộc địa, khuyến khích các bang xóa bỏ quyền hành của Hoàng gia Anh cho thấy thuộc địa nơi đây đã rất sẵn sàng cho một sự độc lập hoàn toàn khỏi mẫu quốc, họ tiến hành các cuộc tích trữ bao gồm vũ khí, nhu yếu phẩm và binh lực tiến hành cho một cuộc “đón tiếp” người Anh.
Đại hội lục địa lần thứ hai (The Second Continental Congress)
Diễn ra tại Philadelphia ngày 10/05/1775, Đại hội lục địa lần thứ II khi này đã có được rất nhiều sự cải tiến và phát triển so với đại hội lần thứ I.
Đầu tiên phải nói đến đó là sự tham gia của đầy đủ 13 bang thuộc địa thay vì 12 như trước đó khiến cho số địa biểu khi này là 65 đại biểu trải đầy đủ trên lãnh thổ thuộc địa. Về quân sự, khi này không còn là sự phát triển lẻ tẻ của các nhóm du kích vài chục người nữa, ngày 14/06/1775, quyết định thành lập Quân đội lục địa (Continental Army) với vị tổng tư lệnh được bổ nhiệm là George Washington (đại diện của bang Virginia).
Lương tri và Tuyên ngôn độc lập
Tháng 1 năm 1776, Thomas Paine, một lý thuyết gia chính trị người Anh đã phát hành ra ấn phẩm dày 50 trang mang tên “Lẽ Thường” hoặc “Lương Tri” tùy nơi dịch (tên tiếng Anh: Common Sense) như một cú vả thẳng mặt vào tư tưởng quân chủ cha truyền con nối cho rằng một người có ích trong xã hội lẽ ra nên được trọng dụng và sẽ có nhiều tác dụng hơn tất cả những kẻ núp bóng triều đình để cậy quyền triều đình mà sống một cách lưu manh. Ông cũng ủng hộ nền độc lập của nước Mỹ trong tác phẩm của mình như sau: “Hoặc là tiếp tục cam chịu cúi đầu trước tên vua tàn bạo và một chính phủ sẽ mục ruỗng, hoặc là tự do và hạnh phúc với tư cách là một nền cộng hòa độc lập tự chủ”. Sức mạnh của nội dung là một mặt, mặt khác ấn phẩm này còn được lưu truyền và bán được hơn 100.000 bản trong 3 tháng đầu tiên phát hành đủ để thấy rằng sức mạnh tiềm tàng của lực lượng cách mạng hiện tại đang là lớn mạnh và dữ dội như thế nào.
Sau không đến 1 tháng làm việc, ngày 04/07/1776 là ngày mà bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ được thông qua (đây cũng là ngày được chọn làm ngày quốc khánh hay ngày độc lập của Xứ Cờ Hoa). Sau đó 4 ngày vào ngày 08 tháng 07, tại Quảng trường độc lập (Independence Square) tại Philadelphia, John Nixon, một thành viên của hội đồng an ninh Pennsylvania đã lần đầu tiên đứng trước công chúng và đọc một cách đầy hào hùng trước các con dân của 13 thuộc địa.
Tôi xin kết thúc bài viết này ở đây. Đây là một nỗ lực khá lớn của tôi để có thể đem đến cho mọi người những thông tin mang tính cô đọng, quan trọng đối với cuộc cách mạng đầy quan trọng của nước Mỹ. Đây cũng đã là cơ hội cho tôi để có thể từng bước khơi gợi niềm yêu thích lịch sử trong chính bản thân mình trước tiên và mong là các bạn cũng thế, tôi rất mong nhận được những lời nhận xét, đánh giá và bổ sung của các bạn độc giả nếu tôi có lỡ gạt đi chi tiết nào quan trọng hoặc có gì đó viết sai bởi vì đây cũng chỉ là lần thứ 2 thứ 3 tôi cố gắng viết một bài về lịch sử như thế này.